Đề bài: Nhà phê bình Chu Văn Sơncho rằng: Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người.
Nêu cảm nghĩ về quan điểm của nhà phê bình Chu Văn Sơn: “Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người” qua bài thơ Đò Lèn
ĐÒ LÈN
Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng
Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm
Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn
Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!
Dàn ý Nêu cảm nghĩ về quan điểm của nhà phê bình Chu Văn Sơn: “Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người” qua bài thơ Đò Lèn
Mở bài
- Làm rõ ý kiến của nhà phê bình Chu Văn Sơn về tiêu chí của một câu thơ hay
- Dẫn dắt từ vai trò của thơ ca đối với cảm xúc và ký ức con người
- Giới thiệu bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy – một tác phẩm tiêu biểu minh chứng cho nhận định
Thơ, hơn bất cứ loại hình nghệ thuật ngôn từ nào khác, có khả năng lay động sâu xa những rung cảm tưởng đã ngủ yên trong lòng người. Nhà phê bình Chu Văn Sơn từng viết: “Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người”. Đó không chỉ là lời ngợi ca giá trị của thơ hay, mà còn là lời khẳng định về sứ mệnh cao cả của thơ ca: kết nối con người với ký ức, với cội nguồn cảm xúc sâu kín trong tâm hồn. Nhận định ấy càng sáng rõ hơn khi đặt trong mạch cảm xúc của bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy – một bài thơ lắng đọng, mang nhiều tầng ý nghĩa, chạm đến ký ức và tình cảm của bao thế hệ người đọc.
Thân bài
Giải thích ý kiến của Chu Văn Sơn
Nhà phê bình Chu Văn Sơn từng khẳng định: “Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người”. Đây không chỉ là một lời nhận xét mà còn là một định nghĩa sâu sắc về thơ hay. Theo ông, một câu thơ thực sự có giá trị khi nó làm sống dậy những cảm xúc, suy nghĩ, ký ức đã từng tồn tại trong mỗi con người nhưng đã bị vùi lấp bởi cuộc sống tất bật, bộn bề.
“Đánh thức” ở đây là sự lay động mạnh mẽ, là khả năng khơi gợi những ấn tượng tưởng như đã lãng quên. Câu thơ hay không chỉ đơn thuần là đẹp về mặt ngôn từ mà còn có sức mạnh khơi dậy những vùng ký ức sâu xa, giúp con người tìm lại sự gắn bó với những điều từng là một phần của đời sống nội tâm. Những ấn tượng ấy có thể là ký ức tuổi thơ, là hình bóng người thân yêu, là cảm giác bình yên hay nỗi xót xa từng hiện diện trong ta mà vì thời gian, ta đã quên mất.
Bàn luận về vai trò của thơ hay
Thơ không chỉ để giải trí. Thơ còn là tiếng nói sâu thẳm của tâm hồn, là một nghệ thuật hướng con người đến những giá trị nhân văn, lành mạnh và cao cả. Khi một câu thơ có thể khiến người đọc lặng người, nhớ lại những gì tưởng đã quên, thì thơ khi ấy đã hoàn thành một sứ mệnh thiêng liêng: đánh thức phần người, phần cảm xúc trong mỗi chúng ta.
Để viết nên những câu thơ lay động lòng người như thế, người làm thơ phải là người sống sâu sắc, có trải nghiệm, có rung cảm chân thành. Câu thơ hay không nằm ở chỗ phức tạp hay trau chuốt cầu kỳ, mà ở khả năng khiến người đọc thấy thân thuộc, gần gũi, rồi bất ngờ nhận ra một điều thật mới về những điều rất cũ trong lòng mình.
Chứng minh qua bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Nguyễn Duy là nhà thơ nổi bật trong nền thơ Việt Nam hiện đại, với giọng thơ mộc mạc, giàu cảm xúc và mang đậm tính thế sự. Bài thơ “Đò Lèn” được sáng tác vào năm 1983 khi ông trở về quê hương, sống lại với những ký ức tuổi thơ đầy trong trẻo và đau đáu nỗi buồn.
“Đò Lèn” – Dòng hồi ức được đánh thức trong tâm hồn nhà thơ
Toàn bộ bài thơ là một dòng hồi tưởng, là hành trình trở lại những tháng năm thơ ấu gắn với bà, với làng quê, với cả chiến tranh và mất mát. Những câu thơ đầy hình ảnh cụ thể, sinh động như “tôi đi học còn chưa biết chữ / nhặt bom bi còn sáng lấp lánh” hay “ăn trộm nhãn chùa / bị bắt sứt đầu chảy máu” không chỉ kể lại mà còn khiến người đọc sống lại trong chính tuổi thơ của mình. Đó là cái thời trong sáng, nghịch ngợm, thiếu thốn nhưng đầy tình cảm.
Hình ảnh người bà hiện lên rõ nét và đầy cảm động: một người phụ nữ tảo tần, chắt chiu vì con cháu, ngày ngày mò cua xúc tép, đi bán chè xanh, trứng gà… Những công việc lam lũ ấy không khiến bà mệt mỏi mà ngược lại, càng làm sáng lên phẩm chất chịu thương chịu khó, tình yêu thương bao la của người bà Việt Nam. Đến cuối bài thơ, sự tỉnh thức muộn màng của người cháu khi đứng trước mộ bà như một tiếng nấc nghẹn lòng. Câu thơ: “tôi ở trong Nam ra thăm mộ bà / đã thành người lính già tóc bạc” vang lên như một sự ăn năn, xót xa.
“Đò Lèn” – Bài thơ đánh thức ký ức người đọc
Ký ức của nhà thơ Nguyễn Duy không chỉ là của riêng ông, mà còn là ký ức chung của biết bao người Việt. Đọc “Đò Lèn”, ta cũng nhớ về bà mình, về tuổi thơ mình, về những ngày xưa cũ đã trôi qua. Chính ở điểm này, bài thơ đã làm được điều mà Chu Văn Sơn nói đến: đánh thức những ấn tượng ngủ quên trong kí ức. Nó khiến ta xúc động, bồi hồi, như thể tìm lại được một phần con người mình từng đánh mất.
Thành công nghệ thuật góp phần làm nên sức sống của “Đò Lèn”
Nguyễn Duy đã rất tài tình trong việc sử dụng thể thơ tám chữ, không viết hoa đầu dòng, tạo nên mạch cảm xúc chân thực, liên tục. Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi nhưng giàu hình ảnh gợi tả. Cách sử dụng đối lập giữa hồi ức thơ ấu và sự tỉnh thức ở hiện tại làm nổi bật chiều sâu cảm xúc. Giọng điệu tự sự, chân thành khiến bài thơ không cần cầu kỳ mà vẫn chạm tới trái tim người đọc.
Đánh giá và mở rộng
Quan điểm của Chu Văn Sơn là một góc nhìn tinh tế và đầy nhân văn về thơ. “Đò Lèn” là một minh chứng rõ ràng cho nhận định ấy. Không chỉ lay động tâm hồn nhà thơ, bài thơ còn lan tỏa tới độc giả bằng những hồi ức giản dị mà sâu lắng.
Thơ hay không chỉ là kỹ thuật viết tốt, mà còn là sự rung cảm, sự chân thành và khả năng truyền cảm hứng. Người sáng tác cần sống thật sâu, thật kỹ để tìm thấy cái đẹp trong những điều tưởng chừng như rất đỗi đời thường. Còn người đọc, cần mở lòng để lắng nghe, để thấy mình trong từng câu thơ, để ký ức được đánh thức và cảm xúc được trở lại.
Kết bài
- Khẳng định tính đúng đắn và giá trị của ý kiến Chu Văn Sơn trong việc đánh giá thơ hay
- Đánh giá vai trò của bài thơ “Đò Lèn” trong việc chạm đến ký ức và cảm xúc người đọc
- Liên hệ thực tiễn: bài học dành cho người sáng tác và người tiếp nhận thơ
Ý kiến của nhà phê bình Chu Văn Sơn là một lời khẳng định sâu sắc về giá trị tinh thần mà thơ ca có thể mang lại. Qua bài thơ “Đò Lèn”, ta càng nhận rõ sức mạnh của một câu thơ hay – không chỉ lưu lại trong trí nhớ mà còn có khả năng đánh thức, hồi sinh những xúc cảm đẹp đẽ từng bị thời gian vùi lấp. Đó là ký ức tuổi thơ, là hình ảnh người bà tảo tần, là sự thức tỉnh của một tấm lòng. Thơ ca chân chính, trước hết cần xuất phát từ cảm xúc chân thành và trải nghiệm thật sự của người viết. Người làm thơ cần biết sống sâu, sống thật để câu chữ có thể chạm đến người khác. Còn người đọc, cần học cách lắng nghe, mở lòng để khi một câu thơ khẽ ngân, cũng là lúc ký ức trong ta cựa mình tỉnh dậy.
Bài văn mẫu Nêu cảm nghĩ về quan điểm của nhà phê bình Chu Văn Sơn: “Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người” qua bài thơ Đò Lèn
Bài văn mẫu 1
Thơ là tiếng nói tinh tế nhất của tâm hồn con người. Trong một thế giới mà cuộc sống ngày càng hối hả, thơ vẫn giữ được chỗ đứng bởi khả năng chạm đến những cảm xúc nguyên sơ, đánh thức những gì tưởng như đã chìm sâu trong ký ức. Nhà phê bình Chu Văn Sơn từng viết: “Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người.” Nhận định ấy không chỉ thể hiện cái nhìn sâu sắc về bản chất của thơ ca, mà còn nhấn mạnh vai trò của thơ trong việc lưu giữ và khơi gợi những điều đẹp đẽ, thiêng liêng đã bị lãng quên. Bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy là một minh chứng tiêu biểu cho ý kiến ấy, khi mỗi câu thơ không chỉ là kỷ niệm của tác giả mà còn gợi dậy biết bao hồi ức trong lòng người đọc.
Câu thơ hay không phải là câu thơ lộng lẫy về hình thức, mà là câu thơ có thể khiến ta dừng lại, suy ngẫm, có khi là rưng rưng nước mắt. “Đánh thức” mà Chu Văn Sơn nói đến không chỉ là sự gợi nhớ đơn thuần, mà là sự lay động sâu xa đến tầng ký ức bị lãng quên. Những câu thơ như thế khiến người đọc không chỉ đọc bằng mắt mà còn đọc bằng tim. Chúng có khả năng đưa người đọc trở về một vùng trời ký ức nào đó của riêng mình, nơi từng có bà, có mẹ, có tuổi thơ, có những điều giản dị mà khi trưởng thành ta mới nhận ra là quý giá.
Bài thơ “Đò Lèn” là một hành trình hồi tưởng, nơi Nguyễn Duy trở về sống lại với tuổi thơ đã xa. Những câu thơ không cần hoa mỹ nhưng thấm đẫm cảm xúc chân thành: “Tôi đi học còn chưa biết chữ / nhặt bom bi còn sáng lấp lánh” hay “ăn trộm nhãn chùa / bị bắt sứt đầu chảy máu” là những hình ảnh gợi lên tuổi thơ đầy hồn nhiên, nghịch ngợm mà rất đỗi thân thuộc. Tuổi thơ ấy gắn liền với bà – một người phụ nữ tảo tần, lam lũ, là điểm tựa yêu thương trong cuộc đời người cháu. Câu thơ: “bà tôi đi bán trứng ga trứng vịt / ở ga Lèn bà chẳng nói điều gì” là một nét vẽ mộc mạc nhưng đầy xúc động, nói lên sự hy sinh thầm lặng, cam chịu của người bà quê.
Bài thơ còn khiến người đọc day dứt bởi sự muộn màng trong tình cảm của cháu dành cho bà. Đến cuối cùng, khi tóc đã bạc, tác giả mới có dịp trở về thăm mộ bà: “Tôi ở trong Nam ra thăm mộ bà / đã thành người lính già tóc bạc.” Một câu thơ tưởng như rất đỗi bình thường nhưng lại hàm chứa cả một nỗi ân hận, tiếc nuối và thương yêu. Người đọc cũng chợt lặng người vì chính mình – có thể cũng đã từng quên đi một người bà như thế, một ký ức như thế.
“Đò Lèn” không chỉ là một bài thơ về tuổi thơ hay về người bà, mà còn là một tấm gương phản chiếu ký ức của người đọc. Những hình ảnh, những âm thanh trong bài thơ khiến người ta thấy mình trong đó – cũng từng có một vùng quê, một người bà, những trò nghịch dại, những lần không hiểu lòng người lớn. Chính vì vậy, “Đò Lèn” không chỉ là ký ức của riêng Nguyễn Duy, mà còn là ký ức tập thể của bao người Việt đã lớn lên trong khốn khó nhưng đầy tình thân.
Một phần không nhỏ làm nên sức lay động của “Đò Lèn” là nhờ nghệ thuật thể hiện giản dị mà tinh tế. Thể thơ tám chữ không viết hoa đầu dòng tạo cảm giác tự nhiên như lời kể. Giọng điệu chân thành, pha trộn giữa trầm lắng và nghẹn ngào. Hình ảnh trong thơ gần gũi, đời thường, không màu mè nhưng lại đầy ám ảnh. Chính sự đơn sơ ấy lại khiến bài thơ dễ đi vào lòng người, như một làn gió nhẹ khơi dậy những điều ta ngỡ đã quên.
“Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người” – lời nhận định của Chu Văn Sơn thực sự đúng đắn khi soi chiếu vào “Đò Lèn”. Nguyễn Duy đã viết nên những câu thơ không chỉ để kể chuyện, mà để sống lại, để lay động, để đánh thức. Và bài thơ ấy, qua năm tháng, vẫn tiếp tục gõ cửa những miền ký ức đã ngủ quên trong trái tim người đọc.
Bài văn mẫu 2
Có những câu thơ không đơn thuần là dòng ngôn từ sắp xếp hợp lý mà là một tiếng gọi tha thiết từ sâu thẳm ký ức. Chúng không chỉ làm người đọc rung động nhất thời mà còn để lại dư âm lâu dài trong tâm trí, bởi lẽ thơ hay luôn có khả năng đánh thức những điều tưởng chừng đã lãng quên. Nhà phê bình Chu Văn Sơn từng viết: “Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người.” Đây là một cách định nghĩa thơ vừa chặt chẽ vừa đầy tính nhân văn, bởi nó không tách rời thơ ra khỏi đời sống, khỏi trái tim và ký ức của mỗi người. Bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy là minh chứng sinh động cho điều ấy – một bài thơ không chỉ kể về một người bà mà còn gợi về cả một thời đã xa trong tâm hồn người đọc.
Nhận định của Chu Văn Sơn không chỉ dừng lại ở một lời khen mang tính cảm xúc. Ẩn sâu trong đó là một quan niệm nghệ thuật rõ ràng: thơ hay không chỉ để đọc, mà còn để sống cùng, để nhớ, để thức tỉnh. “Câu thơ hay” ở đây là những câu thơ có khả năng làm lay động nội tâm người đọc, khơi gợi những cảm xúc chân thực, những ký ức tưởng chừng đã chìm khuất theo năm tháng. Những “ấn tượng ngủ quên” có thể là hình ảnh tuổi thơ, một người thân yêu, một niềm đau, một kỷ niệm đẹp – tất cả từng là một phần đời người, nhưng dễ dàng bị lãng quên giữa vòng xoáy của hiện tại. Và chính thơ – nếu đủ sâu, đủ thật – sẽ giúp con người sống lại với những điều tưởng đã mất, giúp tâm hồn được soi rọi và cảm xúc được hồi sinh.
Không phải ngẫu nhiên mà những bài thơ hay nhất trong lịch sử văn học đều là những bài thơ khiến người đọc lặng đi vì xúc động. Bởi khi một câu thơ chạm được vào vùng ký ức sâu kín ấy, nó không chỉ hoàn thành vai trò nghệ thuật, mà còn thực hiện sứ mệnh nhân văn – đưa con người trở về với chính mình.
“Đò Lèn” được viết sau một lần Nguyễn Duy về quê, đứng lặng trước mộ bà. Bài thơ không chỉ là một sự tưởng niệm, mà là cuộc đối thoại giữa quá khứ và hiện tại. Từng hình ảnh trong bài thơ – từ những trò chơi trẻ con như “ăn trộm nhãn chùa”, “nhặt bom bi”, đến hình ảnh bà đi bán trứng ở ga Lèn, đều là những mảnh ký ức sống động được khơi dậy một cách tự nhiên mà sâu sắc. Tuổi thơ của tác giả hiện lên đầy màu sắc – vừa nghịch ngợm, vừa thiếu thốn, vừa yêu thương – và tất cả đều xoay quanh người bà. Trong không khí đói khổ và chiến tranh, tình thương của bà là ngọn lửa nhỏ giữ ấm cả tuổi thơ cháu.
Nhưng “Đò Lèn” không dừng lại ở hoài niệm. Sự tỉnh thức muộn màng của người cháu khi viết: “tôi ở trong Nam ra thăm mộ bà / đã thành người lính già tóc bạc” như một tiếng thở dài từ tận đáy lòng. Đó là giây phút người ta nhận ra những gì thiêng liêng nhất đã đi qua – và những câu thơ chính là nơi chứa đựng nỗi tiếc nuối ấy. Người đọc, khi đến với “Đò Lèn”, không chỉ được nghe câu chuyện của Nguyễn Duy, mà còn thấy mình trong đó. Bởi ký ức về bà, về tuổi thơ, về những thiếu hụt và ăn năn – là điều rất thật, rất gần với mỗi người.
Câu thơ hay không thể thiếu sự đồng cảm. Và “Đò Lèn” có sức lay động mạnh mẽ bởi người đọc nào cũng có một phần ký ức tương tự để đồng điệu. Một người bà âm thầm, những ngày tháng cũ kỹ, một phút giật mình khi nhận ra mình đã vô tình với yêu thương – tất cả hiện lên qua những câu thơ bình dị nhưng thấm thía.
Nguyễn Duy không sử dụng kỹ thuật hoa mỹ. Thể thơ tám chữ, không viết hoa đầu dòng tạo nên cảm giác gần gũi như lời tâm sự. Ngôn ngữ đời thường, giọng điệu chân thành, không lên gân mà đầy ám ảnh. Tác giả đã để cảm xúc dẫn đường cho ngôn từ – và chính điều đó khiến bài thơ trở nên đậm chất nhân văn.
Từ “Đò Lèn”, có thể thấy rằng lời nhận định của Chu Văn Sơn là hoàn toàn xác đáng. Một câu thơ thực sự hay không chỉ để người đọc nhớ, mà còn để người đọc sống lại. Đó là những câu thơ giúp con người soi chiếu lại chính mình, tìm về cội nguồn cảm xúc, khơi dậy sự biết ơn, niềm yêu thương và cả những nỗi tiếc nuối chưa từng được gọi tên.