📘 Tải 100+ tài liệu nghị luận văn học, 100+ đề thi học sinh giỏi ... chỉ 1 Click

Nêu cảm nghĩ về quan điểm của nhà phê bình Chu Văn Sơn: “Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người” qua bài thơ Đò Lèn

Đề bài: Nhà phê bình Chu Văn Sơncho rằng: Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người.
Nêu cảm nghĩ về quan điểm của nhà phê bình Chu Văn Sơn: “Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người” qua bài thơ Đò Lèn

ĐÒ LÈN

Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần

Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng

Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn

Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm

Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn

Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!

Dàn ý Nêu cảm nghĩ về quan điểm của nhà phê bình Chu Văn Sơn: “Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người” qua bài thơ Đò Lèn

Mở bài

  • Làm rõ ý kiến của nhà phê bình Chu Văn Sơn về tiêu chí của một câu thơ hay
  • Dẫn dắt từ vai trò của thơ ca đối với cảm xúc và ký ức con người
  • Giới thiệu bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy – một tác phẩm tiêu biểu minh chứng cho nhận định

Thơ, hơn bất cứ loại hình nghệ thuật ngôn từ nào khác, có khả năng lay động sâu xa những rung cảm tưởng đã ngủ yên trong lòng người. Nhà phê bình Chu Văn Sơn từng viết: “Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người”. Đó không chỉ là lời ngợi ca giá trị của thơ hay, mà còn là lời khẳng định về sứ mệnh cao cả của thơ ca: kết nối con người với ký ức, với cội nguồn cảm xúc sâu kín trong tâm hồn. Nhận định ấy càng sáng rõ hơn khi đặt trong mạch cảm xúc của bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy – một bài thơ lắng đọng, mang nhiều tầng ý nghĩa, chạm đến ký ức và tình cảm của bao thế hệ người đọc.

Thân bài

Giải thích ý kiến của Chu Văn Sơn

Nhà phê bình Chu Văn Sơn từng khẳng định: “Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người”. Đây không chỉ là một lời nhận xét mà còn là một định nghĩa sâu sắc về thơ hay. Theo ông, một câu thơ thực sự có giá trị khi nó làm sống dậy những cảm xúc, suy nghĩ, ký ức đã từng tồn tại trong mỗi con người nhưng đã bị vùi lấp bởi cuộc sống tất bật, bộn bề.

“Đánh thức” ở đây là sự lay động mạnh mẽ, là khả năng khơi gợi những ấn tượng tưởng như đã lãng quên. Câu thơ hay không chỉ đơn thuần là đẹp về mặt ngôn từ mà còn có sức mạnh khơi dậy những vùng ký ức sâu xa, giúp con người tìm lại sự gắn bó với những điều từng là một phần của đời sống nội tâm. Những ấn tượng ấy có thể là ký ức tuổi thơ, là hình bóng người thân yêu, là cảm giác bình yên hay nỗi xót xa từng hiện diện trong ta mà vì thời gian, ta đã quên mất.

Bàn luận về vai trò của thơ hay

Thơ không chỉ để giải trí. Thơ còn là tiếng nói sâu thẳm của tâm hồn, là một nghệ thuật hướng con người đến những giá trị nhân văn, lành mạnh và cao cả. Khi một câu thơ có thể khiến người đọc lặng người, nhớ lại những gì tưởng đã quên, thì thơ khi ấy đã hoàn thành một sứ mệnh thiêng liêng: đánh thức phần người, phần cảm xúc trong mỗi chúng ta.

Để viết nên những câu thơ lay động lòng người như thế, người làm thơ phải là người sống sâu sắc, có trải nghiệm, có rung cảm chân thành. Câu thơ hay không nằm ở chỗ phức tạp hay trau chuốt cầu kỳ, mà ở khả năng khiến người đọc thấy thân thuộc, gần gũi, rồi bất ngờ nhận ra một điều thật mới về những điều rất cũ trong lòng mình.

Chứng minh qua bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy

Giới thiệu tác giả, tác phẩm

Nguyễn Duy là nhà thơ nổi bật trong nền thơ Việt Nam hiện đại, với giọng thơ mộc mạc, giàu cảm xúc và mang đậm tính thế sự. Bài thơ “Đò Lèn” được sáng tác vào năm 1983 khi ông trở về quê hương, sống lại với những ký ức tuổi thơ đầy trong trẻo và đau đáu nỗi buồn.

“Đò Lèn” – Dòng hồi ức được đánh thức trong tâm hồn nhà thơ

Toàn bộ bài thơ là một dòng hồi tưởng, là hành trình trở lại những tháng năm thơ ấu gắn với bà, với làng quê, với cả chiến tranh và mất mát. Những câu thơ đầy hình ảnh cụ thể, sinh động như “tôi đi học còn chưa biết chữ / nhặt bom bi còn sáng lấp lánh” hay “ăn trộm nhãn chùa / bị bắt sứt đầu chảy máu” không chỉ kể lại mà còn khiến người đọc sống lại trong chính tuổi thơ của mình. Đó là cái thời trong sáng, nghịch ngợm, thiếu thốn nhưng đầy tình cảm.

Hình ảnh người bà hiện lên rõ nét và đầy cảm động: một người phụ nữ tảo tần, chắt chiu vì con cháu, ngày ngày mò cua xúc tép, đi bán chè xanh, trứng gà… Những công việc lam lũ ấy không khiến bà mệt mỏi mà ngược lại, càng làm sáng lên phẩm chất chịu thương chịu khó, tình yêu thương bao la của người bà Việt Nam. Đến cuối bài thơ, sự tỉnh thức muộn màng của người cháu khi đứng trước mộ bà như một tiếng nấc nghẹn lòng. Câu thơ: “tôi ở trong Nam ra thăm mộ bà / đã thành người lính già tóc bạc” vang lên như một sự ăn năn, xót xa.

“Đò Lèn” – Bài thơ đánh thức ký ức người đọc

Ký ức của nhà thơ Nguyễn Duy không chỉ là của riêng ông, mà còn là ký ức chung của biết bao người Việt. Đọc “Đò Lèn”, ta cũng nhớ về bà mình, về tuổi thơ mình, về những ngày xưa cũ đã trôi qua. Chính ở điểm này, bài thơ đã làm được điều mà Chu Văn Sơn nói đến: đánh thức những ấn tượng ngủ quên trong kí ức. Nó khiến ta xúc động, bồi hồi, như thể tìm lại được một phần con người mình từng đánh mất.

Thành công nghệ thuật góp phần làm nên sức sống của “Đò Lèn”

Nguyễn Duy đã rất tài tình trong việc sử dụng thể thơ tám chữ, không viết hoa đầu dòng, tạo nên mạch cảm xúc chân thực, liên tục. Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi nhưng giàu hình ảnh gợi tả. Cách sử dụng đối lập giữa hồi ức thơ ấu và sự tỉnh thức ở hiện tại làm nổi bật chiều sâu cảm xúc. Giọng điệu tự sự, chân thành khiến bài thơ không cần cầu kỳ mà vẫn chạm tới trái tim người đọc.

Đánh giá và mở rộng

Quan điểm của Chu Văn Sơn là một góc nhìn tinh tế và đầy nhân văn về thơ. “Đò Lèn” là một minh chứng rõ ràng cho nhận định ấy. Không chỉ lay động tâm hồn nhà thơ, bài thơ còn lan tỏa tới độc giả bằng những hồi ức giản dị mà sâu lắng.

Thơ hay không chỉ là kỹ thuật viết tốt, mà còn là sự rung cảm, sự chân thành và khả năng truyền cảm hứng. Người sáng tác cần sống thật sâu, thật kỹ để tìm thấy cái đẹp trong những điều tưởng chừng như rất đỗi đời thường. Còn người đọc, cần mở lòng để lắng nghe, để thấy mình trong từng câu thơ, để ký ức được đánh thức và cảm xúc được trở lại.

Kết bài

  • Khẳng định tính đúng đắn và giá trị của ý kiến Chu Văn Sơn trong việc đánh giá thơ hay
  • Đánh giá vai trò của bài thơ “Đò Lèn” trong việc chạm đến ký ức và cảm xúc người đọc
  • Liên hệ thực tiễn: bài học dành cho người sáng tác và người tiếp nhận thơ

Ý kiến của nhà phê bình Chu Văn Sơn là một lời khẳng định sâu sắc về giá trị tinh thần mà thơ ca có thể mang lại. Qua bài thơ “Đò Lèn”, ta càng nhận rõ sức mạnh của một câu thơ hay – không chỉ lưu lại trong trí nhớ mà còn có khả năng đánh thức, hồi sinh những xúc cảm đẹp đẽ từng bị thời gian vùi lấp. Đó là ký ức tuổi thơ, là hình ảnh người bà tảo tần, là sự thức tỉnh của một tấm lòng. Thơ ca chân chính, trước hết cần xuất phát từ cảm xúc chân thành và trải nghiệm thật sự của người viết. Người làm thơ cần biết sống sâu, sống thật để câu chữ có thể chạm đến người khác. Còn người đọc, cần học cách lắng nghe, mở lòng để khi một câu thơ khẽ ngân, cũng là lúc ký ức trong ta cựa mình tỉnh dậy.

Bài văn mẫu cảm nghĩ về quan điểm của nhà phê bình Chu Văn Sơn Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người

Mỗi ngày trôi qua cùng nhịp thở hơi đập của cuộc sống có biết bao nhiêu thứ xảy ra, xoay quanh chúng ta. Có thứ đáng nhớ, có thứ cần quên và cũng có thứ vô tình bị bỏ lại phía sau dĩ vãng. Nhưng không phải vì thế mà mọi thứ đều bị chôn vùi. Kỉ vật sinh ra từ đây, làm chiếc kho cất giữ những tình cảm và sự việc đã qua. Vừa hay không có câu thơ nào là không chất chứa cảm xúc, không có bài thơ nào mà ẩn đằng sau đó không mang một câu chuyện mà qua cái cảm xúc ấy, câu chuyện ấy thơ ca khơi dậy lên trong lòng bạn đọc những thứ vốn đã bị chôn vùi, che lấp, phai mờ trong lớp bụi của thời gian. Bởi thế nhà nghiên cứu phê bình văn học Chu Văn Sơn đã nói rằng: “Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức con người”

Người yêu thơ xưa nay đều hiểu “thơ” là một hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống với những cảm xúc chất chứa, cô đọng, những tâm trạng dạt dào, những tưởng tượng mạnh mẽ trong ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu. Từ đó cho ta hiểu “câu thơ hay” là câu thơ có giá trị gợi tả, gợi cảm, mang đến cho người đọc những cảm xúc, những rung động mãnh liệt, nhận thức sâu sắc, thú vị. Chính vì thế mà câu thơ hay có khả năng “đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức con người”, làm sống dậy, thức tỉnh, gợi về những cảm xúc, những rung động mãnh liệt,… về đời sống, về con người mà mỗi người đã từng chứng kiến, trải nghiệm nhưng bị vùi lấp, lãng quên trong miền kí ức  của mỗi con người. Như vậy ý kiến trên đã khẳng định sứ mệnh cao cả của thơ ca, một câu thơ hoặc một bài thơ có giá trị phải là một câu thơ có khả năng làm sống dậy trong người đọc những ấn tượng, cảm xúc, rung động, nhận thức,… vè cuộc sống và con người vốn có trong mỗi người nhưng bị thời gian, cuộc sống bận rộn làm cho lãng quên, mờ nhạt.

Quả thực nhà nghiên cứu văn học Chu Văn Sơn đã rất sâu sắc khi đưa ra một ý kiến xác đáng, đúng đắn như thế. Vì sao lại nói “câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức con người”. Bởi xuất phát từ đặc trưng của thơ ca. Tình cảm là yếu tố quan trọng, là sinh mệnh của thơ, bởi như Bằng Việt đã từng nói: “tiêu chuẩn vĩnh cửu của thơ là tình cảm”. Chỉ khi tình cảm ấy thăng hoa, họ mới có thể tạo ra áng thơ đẹp nhất, lộng lẫy nhất. Và từ chính những xúc cảm mãnh liệt ấy, chất chứa, ứ đầy ấy đã chạm đến chiều sâu của trái tim bạn đọc, thưcs tỉnh trong họ những giá trị vốn đã ngủ quên.Thơ ca là nơi cảm xúc được chưng cất tinh tế, mỗi câu thơ là một viên ngọc chứa đựng bao tầng ý nghĩa, bởi thế có những câu thơ khiến ta bất giác dừng lại, không chỉ vì vẻ đẹp ngôn từ mà còn vì nó khơi gợi những kí ức, cảm xúc vốn tưởng đã ngủ quên trong lòng người, đưa người đọc vào hành trình khám phá thế giới  nội tâm. Vì thế khi đọc hai câu thơ cuối trong bài thơ “Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch , trước tiếng lòng dạt dào rung lên trong đêm trăng thanh tĩnh mà tác giả dành cho quê hương của mình, người đọc cũng cảm thấy sâu trong trái tim mình, thứ tình cảm ấy bỗng trỗi dậy mạnh mẽ, dạt dào trong tâm hồn. “Câu thơ hay có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức con người” còn bởi sứ mệnh của văn học nói chung và thơ ca nói riêng không đơn thuần là để thỏa mãn nhu cầu giải trí mà còn là thức tỉnh con người khỏi những lầm lạc, u mê, hướng người đọc về cái đích của CHÂN-THIÊN- MỸ. Một câu thơ hay vì thế không chỉ đẹp về mặt hình thức, mà còn phải có sức mạnh lay động và đánh thức những miền ký ức sâu thẳm, tạo nên sự cộng hưởng sâu sắc trong lòng người.  Khi đánh thức được bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người đồng nghĩa với việc thơ ca sẽ giúp con người tìm lại được sự tinh tế, sự nhạy cảm, sự rung động trước cái đẹp, cái nhân văn cao cả mà cuộc sống thường ngày làm cho chai sạn, hay nói cách khác thơ ca sẽ giúp con người tìm lại được chính mình. Hàn Mặc Tử, trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, đã viết:”Sao anh không về chơi thôn Vĩ?/Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên.”Hình ảnh “nắng hàng cau” bừng sáng lên trong tâm trí người đọc, không chỉ là ánh nắng thực mà còn là ánh sáng của những kỷ niệm trong trẻo, những mộng ước thanh xuân. Những câu thơ ấy không chỉ là lời mời gọi trở về một miền quê, mà còn khơi dậy trong lòng ta những ấn tượng về sự trong lành, bình yên, và cả niềm tiếc nuối những gì đã qua. Đó là sức mạnh kỳ diệu của thơ ca – đưa người đọc trở về không gian cảm xúc của chính họ, nơi chứa đựng những ký ức không bao giờ phai nhạt. Quá trình sáng tạo nghệ thuật không kết thúc ở việc tác phẩm được khai sinh, mà còn ở quá trình tác phẩm sống trong lòng người đọc. Khi đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người” thơ ca sẽ giúp người đọc tiếp cận tác phẩm không hời hợt mà còn bằng tất cả rung động, trải nghiệm của mình, từ đó khơi gợi quá trình đồng sáng tạo với tác giả trong mỗi người đọc. Không chỉ dừng lại ở sứ mệnh của thơ ca, thiên chức của thi sĩ trong quá trình sáng tạo cũng rất cần thiết. Người nghệ sĩ với một trái tim nhân ái và bao dung, một tâm hồn tài năng và thi vị, anh sẽ thổi vào từng vần thơ của mình một niềm cảm thông và chia sẻ cao độ, để mỗi ý thơ của anh khi thấm vào trong giấy trắng tinh khôi phải là một liều thuốc bổ về tinh thần. Liều thuốc ấy khi đến với trái tim bạn đọc như một sự thức tỉnh về tâm hồn mãnh liệt, “đánh thức những ấn tượng vốn đã ngủ quên”, tiếng thơ trong anh vừa sâu vừa lắng để rồi qua những con chữ chảy ra từ huyết quản của nhà thơ mà truyền đến trái tim bạn đọc sợi dây của tư tưởng, tình cảm, thổn thức và rung lên những cảm xúc vốn có nhưng bị thời gian làm mờ đi, phai nhạt.

Sê-Khốp đã từng nói: “ Một nhà văn chân chính là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Quả thực mỗi người nghệ sĩ luôn mang trong mình sứ mệnh cao cả là tạo ra được những tác phẩm văn học chân chính để qua đó hướng người đọc đến những giá trị nhân văn, thức tỉnh bạn đọc những tình cảm vốn đã “ngủ quên”. Những phẩm chất cao đẹp ấy đã được kết tụ đầy đủ ở Nguyễn Du- đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Sinh ra và lớn lên trong những cái nôi văn hóa của đất nước cùng những trải nghiệm của cuộc sống đã hình thành ở Nguyễn Du tài năng thi ca với một trái tim đa sầu, đa cảm, một tấm lòng nhân đạo sâu sắc và một tinh thần nhân văn cao cả. Bởi thế khi đọc “ Độc tiểu Thanh kí”, chính  những lời tâm tình đầy sầu cảm của Ndu về thân phận của người tài mệnh tương đố, hồng nhan đã truân, ta cảm nhận được sâu sắc ý thơ trong đó và hướng con người ta thức tỉnh những giá trị nhân văn cao đẹp.

“ Độc tiểu Thanh kí” là một bài thơ hay, “có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người”. Trước hết NDu đã đánh thức bạn đọc về sự xót thương, nuối tiếc trước sự tàn phá, đổi thay của thời gian với cái đẹp bị vùi dập :

“ Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”

Câu thơ đầu tả cảnh mà chất chứa bao cảm xúc, có chút gì đó ngậm ngùi, chua xót, lại có chút gì đó nuối tiếc, thở than. Tiếng lòng của Nguyễn Du đã thổn thức khi đối diện với hiện thực dễ gợi cảm, gợi sầu. Câu thơ gợi lên lẽ đời dâu bể nhưng mối thương tâm của thi nhân lại đặt nơi cái đẹp bị tàn phá phũ phàng. Hình tượng thơ được đặt trong sự đối lập “cảnh đẹp” với “gò hoang” gợi nghịch cảnh éo le nhay từ đầu bài thơ. Đó cũng chính là nghịch cảnh giữa qk và ht, giữa cái huy hoàng và sự hoang vu, cô quanhj, thể hiện nỗi niềm thương cảm trước cái đẹp bị trò đời trêu đùa đến nhẫn tâm, đến tàn lụi. Mượn sự biến thiên của không gian để nói về sự tàn phá tuyệt đối của thời gian, ta nhận ra nỗi xót xa se thắt lòng của Nguyễn Du. Nhớ đến Tây Hồ là nhớ đến nàng Tiểu Thanh- người con gái tài hoa bạc mệnh. Không có Nguyễn Du hơn 200 năm sau khóc thương cho nàng Tiểu Thanh bên song cửa sổ với mảnh giấy tàn cùng với những dòng thơ ngấn lệ rơi ra trên trang giấy thì ta đâu thể biết đến cái đẹp bị vùi dập như thế nào? Cái chết của nàng là bằng chứng xót xa cho một kiếp hồng nhan, từ đó càng nuối tiếc trước cảnh đẹp và người đẹp đều chịu chung số phận, gợi cho người đọc một cảm giác xúc động, cô đơn và ám ảnh trong tâm trước quy luật nghiệt ngã của cuộc đời.

Không chỉ dừng lại ở đó, lời thơ còn như muốn khơi dậy trong lòng bạn đọc sự đồng cảm, xót thương cho những kiếp người đủ đầy tài sắc nhưng cuộc sống lại éo le, đầy bi thương qua số phận bất hạnh, uất hận của cuộc đời Tiểu Thanh:

“ Chi phấn hữu thần liên tử hậu

Văn chương vô mệnh lụy phần dư”

Đời Tiểu Thanh là điển hình cho 2 nỗi oan lớn, đó là hồng nhan bạc phận và tài mệnh tương đố. Có sắc như nàng mà chết yểu, bất hạnh; có tài văn chương mà bị ghét bỏ, vùi dập. Kiếp hồng nhan đa truân trong xã hội phong kiến, đời tài hoa nhưng “ Chữ tài liền với chữ tai một vần”( Truyện Kiều) giữa cõi người, nên di cảo của nàng cũng chính là di hận. “Chi phấn” ẩn dụ cho sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, vẻ đẹp một trong tuyêtj sắc giai nhân của nàng Tiểu Thanh. “Văn chương” ở đây tượng trưng cho tài năng xuất chúng của nàng. Chính vì cái tài hoa ấy mà nàng phải gánh chịu sự ghen ghét, vùi dập phũ phàng, bị đẩy ra Cô Sơn cạnh Tây Hồ sống để rồi cuối cùng nàng chết ở tuổi 18 xuân xanh. Đau cùng nỗi đau của nàng Tiểu Thanh, người đọc như thêm yêu thương người hơn cho những cuộc đời và tài năng bị vùi dập, bởi cái tình yêu thương người vốn đã có sẵn trong mỗi người, chỉ là trong một thời khắc nào đó, con người ta đã quên đi cái tình thương người, sống lạnh lẽo, vô cảm với nhau và chính những dòng thơ chất chứa bao tâm tình của nhà thơ đã đánh thức nó, cho ta thêm yêu, trân trọng, nâng niu những cái đẹp ở đời bị vùi dập, che lấp và cả chính cuộc sống của mình.

Không chỉ dừng lại ở đó, Ndu đã thức tỉnh bạn đọc lên án, phê phán về cái án oan mà xưa nay con người ta gặp phải trong xã hội phong kiến nhưng nay đã bị chìm sâu trong đáy tâm hồn người:

“ Cổ kim hận sự thiên nan vấn

Phong vận kì oan ngã tự cư”

Nỗi đau về tài sắc mà mệnh bạc đâu chỉ là nỗi đau của riêng TT mà là của tất cả những ai có sắc, có tài, đời xưa và đời nay cũng có. Nỗi đau ấy là nỗi đau muôn đời như một định mệnh nghiệt ngã, phũ phàng mà người nắm số mệnh là lực lượng tối cao cũng khó trả lời được “thiên nan vấn”. Từ cái hận của muôn đời, Ndu thương cho cái hận của TT, dồn cái hận kim cổ vào cái hận của nàng, bởi vậy cái hận ấy trở nên quá lớn làm nhức nhối lòng người. Nhà thơ day dứt, đau khổ trước cuộc đời và ông cũng tự nhận mình là người cùng hội cùng thuyền với TT, bởi là nòi phong nhã nên mắc nỗi án oan lạ lùng. Chính cái án oan đó đã khơi sâu trong lòng bạn đọc mối đồng cảm, xót xa, yêu thương, thấu cảm và sẻ chia giữa người với người trong cuộc sống, đồng thời qua đó tố cáo xã hội phong kiến lúc bấy h khi những con người tài sắc vẹn toàn lại phải chịu một cuộc đời nhiều bi kịch.

Tiếng khóc của nàng Tiểu Thanh nay đã có Ndu thấu cảm, nhưng bất ngờ bởi ý thơ chuyển đột ngột từ “thương người” sang “ thương mình”, nhưng từ chính sự chuyển đổi đó, bạn đọc như được nhìn sâu hơn vào bản thân. Câu thơ kết lại bài thơ “ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” cho ta thấy niềm tư tưởng và tự đau đã dâng lên đến tột cùng trong tâm hồn đa sầu đa cảm, cái nỗi buồn thống thiết của nhà thơ đã làm sống dậy trong tâm hồn ta sự trân trọng những giá trị vốn có của bản thân mà ta đã lãng quên, thêm yêu mình từ đó giúp nhìn sâu vào tâm hồn mình, đánh thức trong tâm hồn ta những giá trị, tình cảm nhân văn, những bài học đạo đức cao đẹp. Thanh lọc tâm hồn con người, bồi đắp cho độc giả những phẩm chất đạo đức tốt đẹp để hoàn thiện chính mình.

Nguyễn Du trong “ Độc tiểu Thanh kí” không chỉ làm nên những vần thơ hay về mặt nội dung mà còn sử dụng những nghệ thuật đặc sắc để thành công cho việc “ đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người”. Bằng cách sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật cô đúc, có sự phá cách trong 2 câu thơ kết, có nhiều thanh trắc gợi cảm giác trĩu nặng, ngưng đọng. Ngôn ngữ thơ thì sâu sắc,trữ tình nhưng đậm đầy triết lí, giọng điệu thơ buồn thương, cảm thông, chia sẻ đã khiến cho bài thơ không chỉ là sự đồng cảm với số phận của nàng Tiểu Thanh nói riêng, những con người tài hoa, tài tử mà bất hạnh nói chung mà đó còn là lời tâm sự của chính Nguyễn Du về cuộc đời của mình. Sử dụng tài tình phép đối và khả năng thống nhất những hình ảnh đối lập trong hình ảnh, ngôn từ. Sử dụng nhiều biện pháp tu từ như ẩn dụ, nhân hóa, câu hỏi tu từ,.. hình ảnh thơ hàm súc, giàu giá trị biểu tượng,.. Tất cả đã làm nổi bật sâu sắc tư tưởng, chủ đề của bài thơ.

Tóm lại , qua những tiếng khóc thương người, thương mình, Nguyễn Du đã lay động trái tim bạn đọc, gọi về những cảm xúc,nhưngx rung động vốn bị lãng quên, quả  đúng như nhận định của Chu Văn Sơn: “ Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người”

Yêu thích

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *