📘 Tải 100+ tài liệu nghị luận văn học, 100+ đề thi học sinh giỏi ... chỉ 1 Click

Cảm nhận của em về nhân vật chị Bớt trong câu chuyện “Con yêu con ghét”.

Đọc văn bản sau:

CON YÊU CON GHÉT

Lược phần đầu: Bớt và Nở đều là con gái của bà Ngải nhưng lại nhận sự phân biệt đối xử yêu – ghét trái ngược từ mẹ đến mức Bớt từng phải ấm ức khóc ầm ĩ: “Bu đừng có con yêu con ghét! Được, đã thế xem sau này bu già, một mình cái Nở có nuôi bu không, hay lúc ấy lại phải gọi đến tôi?”. Sau này, hai cô con gái đi lấy chồng, bà vẫn đối xử kiểu phân biệt, có gì cũng bù trì cho Nở, tiền nong gửi cả Nở nhưng rồi lại bị chính Nở dáo dở lấy hết tiền gom góp dành dụm của bà. Bà giận, khóa cửa, xuống cuối làng ở với mẹ con Bớt.

[…] Thấy mẹ đem quần áo, nồi niêu đến ở chung, Bớt rất mừng. Nhưng chị cố gặng mẹ cho hết lẽ:

– Bu nghĩ kỹ đi. Chẳng có sau này lại phiền bu ra, như chị Nở thì con không muốn…

Nghe con nhắc thế thì bà cụ lại ngượng. Bà cụ gượng cười:

– Mày khác, nó khác. Với có gì mà phải nghĩ hở con? Ðây này, bu cứ tính thế này: bao giờ đánh xong thằng Mỹ; bố con Hiên với cậu Tấn nó về, lúc bấy giờ ở đâu rồi hãy hay. Còn bây giờ thì bu cứ ở đây với mẹ con mày, chứ bu ở trên ấy một mình vong vóng cũng buồn, mà mẹ con mày dưới này thì lại bấn quá. Mày thì đã lắm thứ công tác. Lại còn lo làm lấy điểm lấy thóc nuôi con…

Từ ngày có bà đến ở chung, Bớt như người được cất đi một nửa gánh nặng trên vai. Giờ Bớt chỉ còn lo công tác với ra đồng làm, giá có phải đi họp hay đi học dăm, bảy ngày liền như lớp học chống sâu bệnh cho lúa vừa rồi, là Bớt có thể yên trí đùm gạo đi được, không phải như cái đận ngày xưa vừa họp đấy, mà bụng thì nôn lên với mấy đứa con còn vất vạ ra ở nhà, gửi liều cho hàng xóm. Mấy đứa trẻ được bà trông, chỉ vài tháng đã lớn, béo ra trông thấy. […] […] Bớt kéo con vào lòng, vạch tóc con ra, và chỉ vào cái sẹo to bằng cái trôn bát ở gần đỉnh đầu, vô tình kể với bà:

– Còn bố nó ở nhà, bố nó thương con này nhất, bố nó cứ bảo: Tội! Con gái xấu xí.

Bà cụ thở dài, và buột ra cái điều mà bà vẫn lấy làm ân hận:

– Ừ, đáng ra thì thế, con nào chả là con. Có mẹ cổ nhân cổ sơ, ngày xưa mẹ mới dọa ra thế chứ!

Bớt vội buông bé Hiên, ôm lấy vai mẹ:

– Ô hay! Con có nói gì đâu, sao bu cứ nghĩ ngợi thế nhỉ?

(Vũ Thị Thường, Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam 1945 – 2005, NXB Công an Nhân dân, 2005, tr. 20 – 23)

Viết đoạn văn nghị luận văn học (khoảng 200 chữ) nêu cảm nhận của em về nhân vật chị Bớt trong câu chuyện “Con yêu con ghét”.
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn:

– Hình thức: đoạn văn (HS có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, hỗn hợp hoặc song hành).

– Dung lượng: khoảng 200 chữ

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: cảm nhận về nhân vật chị Bớt trong truyện “Con yêu con ghét”.
c. Xác định được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận, sau đây là một số gợi ý:

– Mở đoạn: Giới thiệu truyện ngắn “Con yêu con ghét” của tác giả Vũ Thị Thường và nhân vật chị Bớt trong câu chuyện.

– Thân đoạn: Trình bày những cảm nhận về nhân vật chị Bớt

+ Khi còn nhỏ, bị mẹ đối xử không công bằng, chị chỉ biết tủi thân, có lúc ấm ức khóc ầm ĩ nhưng chị vẫn là người con ngoan.

+ Có cuộc sống vất vả, nhiều lo toan khi một mình phải tự  xoay xở, hoàn thành việc công tác, việc nhà : chồng đi đánh Mĩ, một mình lo công tác, lo làm điểm lấy thóc nuôi con, chăm lo cho các con…

+ Giàu tình cảm yêu thương, nhân hậu, bao dung, vị tha:

* Với mẹ: Là người con hiếu thảo, sống rộng lượng, phải đạo làm con. Dù có lúc tủi thân, hờn trách vì mẹ đối xử không công bằng với mình nhưng trên hết chị vẫn lo lắng, yêu thương và biết ơn mẹ của mình.

* Với gia đình nhỏ: Chị yêu chồng, thương con: nhắc đến chuyện chồng yêu thương con bé Hiên hơn cả vì con bé xấu xí; nôn nóng, sốt ruột khi phải để đàn con ở nhà hoặc gửi liều hàng xóm…

-> Nhân vật chị Bớt hội tụ bao vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam và người phụ nữ thời kì chống Mĩ cứu nước.

+ Câu chuyện về chị Bớt được kể bằng ngôi thứ ba, lời kể khách quan, điểm nhìn linh hoạt, khi thì từ những quan sát bên ngoài, khi lại xuyên qua nội tâm của nhân vật để thấy được ý nghĩ, thái độ, tình cảm, phẩm chất của nhân vật…

– Kết đoạn: Khái quát chung cảm nhận về nhân vật, đánh giá vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam nói chung.

d. Diễn đạt: Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp Tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.
e. Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ.
Yêu thích

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bói Bài Tarot
Mở trang