Đề bài: Viết bài văn (khoảng 600 chữ) cảm nhận đặc sắc nội dung, nghệ thuật trong hai văn bản “Giàn bầu trước ngõ” của Nguyễn Ngọc Tư và “Mùi rơm rạ quê mình” của Ngọc Bích.
Giàn bầu trước ngõ của Nguyễn Ngọc Tư
(Lược một đoạn: Nội ra thành phố thăm nhà “tôi”, trồng một giàn bầu. Mới đầu cả nhà đều thích thú với với món canh bầu dân giã, nhưng sau đó, trừ “tôi” cả nhà đều thấy chán nản và phiền phức vị sự xuất hiện của giàn bầu. Sau này, bố đón hẳn nội ra thành phố. Để khỏa lấp nỗi nhớ quê cùng nỗi buồn khi sống trong căn nhà quá rộng đến mức người thân hiếm khi được chạm mặt nhau, nội tìm niềm vui trong căn bếp với đủ các loại bánh quê, và nội trồng bầu ngày một nhiều lên…)
Mùa này nhiều trái bầu khô, nội hái vào móc ruột ra, lấy cái vỏ mằn mì gọt. Lâu lâu nội đưa lên nhìn, nheo nheo mắt. Tôi hỏi, nội gọt gì. Nội cười, đưa cho tôi mảnh vỏ dầy hình trái tim nhỏ xíu.
– Mặt dây chuyền cho tụi nhỏ đeo.
Tôi không nén được xuỳ một tiếng.
– Thời này ai đeo mấy thứ này, nội làm chỉ mất công.
Trong đôi mắt đùng đục của bà, tôi thấy có một nỗi buồn sâu kín. Con chị bếp dưới quê lên, bà gói dúi vào tay nó mấy mảnh bầu. Con nhỏ hớn hở, vui thiệt là vui. Cũng niềm vui ấy, con bé bán vé số lỏn lẻn cười “Bà đẽo đẹp ghê ha”. Hôm sau tôi thấy nó xúng xính xỏ cọng chỉ vào, đeo tòn ten trước cổ lạ lắm. Hình như tôi ngắm vàng ròng, cẩm thạch quen rồi. Tôi xin, bà móm mém cười “Bà để dành cho bay cái đẹp nhất nè”.
Tôi gói trái tim xíu xíu kia bỏ vào ngăn tủ, chị Lan trông thấy giành “cho chị đi”. Tôi lắc đầu. Chị giận bảo “chị cóc cần, ở chợ bán hàng khối”. Nhưng rồi chị quay về nài nỉ tôi . Lần đầu tiền, tôi thấy món quà của nội dễ thường đến thế.
Giàn bầu vẫn trước ngõ. Cha tôi đã thôi khó chịu, hay bực dọc riết rồi chai đi, chẳng biết bực là gì nữa. Nhưng khách đến nhà, ai cũng khen “anh ba có giàn bầu đẹp thiệt”. Họ săm soi, từng mảng lá cuống hoa. Khách nước ngoài còn kề má bên trái bầu xanh lún phún lông tơ mà chụp hình kỷ niệm. Mấy anh chị sinh viên đạp xe ngang dừng lại nhìn đau đáu qua rào rồi kháo nhau “Nhớ nhà quá, tụi mày ơi”. Chiều chiều, tôi ra giàn bầu xanh rượi, mơ màng nghe con ong vò vẽ trên từng phiến lá, chớp mắt nhìn chim sâu lích rích chuyển cành, chuồn chuồn rồi bướm rồi hoa thi nhau nở chấp chới. Bà nội tôi yếu hơn trước, mùa mưa bắt đầu lướt sướt đi qua. Ông chủ tịch đến chơi nhà, ôm chầm lấy nội, lắc lắc “lúc này má khoẻ không?” Nội cười xoà mà nghe nghẹn nghẹn “khoẻ, má khỏe”. Cha tôi sai chị bếp mang rượu thịt ra ông chủ tịch khóa tay:
– Thôi, chú bảo chị ấy nấu canh bầu ăn.
Cha hẩng mặt. Chị bếp lúi húi gọt bầu, mùi nước canh xông vào mũi thơm lừng. Ông chủ tịch day qua bà nội khoe “lâu quá không ăn canh bầu rồi, má!” nội cười: “má nhớ bay thích nhất là ăn bầu nấu tép bạc”. Cha tôi dợm mình “để con đi mua tôm”. Ông chủ tịch ấn vai, bảo “thôi, chú cứ ngồì xuống, anh thèm lắm rồi, không chờ chú được đâu”. Hôm ấy cả nhà tôi ăn lại bát canh ngày xưa, nghe ngọt lìm lịm lưỡi. Chị bếp ngó nội, khoái chí cười đầy hàm ý. Hình như nội tôi vui.
Giàn bầu thưa hẳn đi. Cái giống lạ thật. Nắng bao lâu vẫn xanh tốt, mới mưa dầm lại héo dây. Tôi đập vỡ trái bầu khô, lấy hạt ra ươm. Mùa mưa dữ dội, nội tôi bệnh, bà bị chứng tai biến não. Nội lơ ngơ, đã cười đã khóc thì không sao dừng được, tay run rẩy cầm ca nước, bát cơm cũng khó. Trời đổ mưa, sấm giật ầm ầm, nội thều thào nhắc:
– Sắp nhỏ đừng hứng nước mưa đầu mùa, hổng tốt. Chà, mưa vầy ngập đồng rồi, ngâm giống gieo mạ đi thôi.
Bà nội lẩn thơ lẩn thẩn rồi, mà hình như bà chỉ nhớ về quá khứ. Nội hay ra ngoài hiên, chăm chăm nhìn giàn bầu đang run rẩy trong gió. Bà ngồi đấy lặng lẽ, thẫn thờ, như chờ một tiếng vạc sành, một tiếng ếch kêu. Tay bà lạnh ngắt, tôi chạy vào phòng lấy lọ dầu thoa, vẫn thấy mảnh bầu trái tim màu vàng trong ngăn kéo, cái màu vàng như của rạ, của lúa, như của mái nhà lá nhỏ lơ phơ dưới nắng chiều. Giàn bầu vẫn trước ngõ, có kẻ đi qua kêu lên, “tôi nhớ nhà”. Cha tôi bảo: “có thể bứt người ta ra khỏi quê hương nhưng không thể tách quê hương ra khỏi trái tim con người.” Và cha tôi lại nói đúng.
(……………………)
Chú thích:
Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 tại Đầm Dơi, Cà Mau. Là nữ nhà văn trẻ của Hội nhà văn Việt Nam. Với niềm đam mê viết lách, chị miệt mài viết như một cách giải tỏa và thể nghiệm, chị biết rằng chị muốn viết về những điều gần gũi nhất xung quanh cuộc sống của mình. Giọng văn chị đậm chất Nam bộ, là giọng kể mềm mại mà sâu cay về những cuộc đời éo le, những số phận chìm nổi. Cái chất miền quê sông nước ngấm vào các tác phẩm, thấm đẫm cái tình của làng, của đất, của những con người chân chất hồn hậu nhưng ít nhiều gặp những bất hạnh.
MÙI RƠM RẠ QUÊ MÌNH…
Ngọc Bích
(1) Tôi sinh ra từ một vùng sâu vùng xa ở bưng biền Đồng Tháp, lớn lên giữa hương đồng cỏ nội. Nơi tôi sống ruộng lúa không hẳn là thẳng cánh cò bay mà đủ ngan ngát [1]mùi rơm rạ sau mỗi mùa gặt.
(2) Đối với những người sinh ra và lớn lên ở thôn quê thì dường như cánh đồng đã trở thành một phần ký ức chẳng thể nào quên, bởi nó gắn liền với tuổi thơ – phần thời gian trong trẻo nhất của một đời người.
(3) Trong ký ức của tôi, bức tranh đồng quê sống động một cách kỳ lạ. Đó là những sân phơi trải đầy lúa vàng, tụi con nít vẫn hay đi tới đi lui trên những thảm lúa ngoài sân để lúa mau khô, những bước chân nhỏ xinh in ngang dọc trên đệm lúa vàng. Chúng bước nhanh thật nhanh để tránh cái nắng trên đầu và cái nóng hừng hực dưới chân. Ngày mùa trong tôi còn là những ụ rơm, nhánh rạ trơ ra sau vụ gặt. Đâu đâu cũng thấy rơm rạ ngút ngàn, vàng những lối đi.
(4) Tôi thương cái mùi rơm rạ quê mình. Nó cứ thoang thoảng rồi loang dần, quấn chặt vào sống mũi. Mùi rơm rạ là mùi của đồng ruộng, mùi của mồ hôi ba ngày vác cuốc ra đồng, mùi của niềm vui mùa lúa trúng, mùi nỗi buồn nơi khoé mắt mẹ sau mỗi vụ thất thu.
(5) Nồi cơm mới thơm lừng, không những thơm bởi hạt gạo mà còn vì được đun bằng bếp rơm, lửa cháy bùng, cơm sôi ùng ục. Đó là cái mùi cứ phảng phất theo tôi, để rồi những tháng năm sau đó tôi đi khắp mọi miền, đi qua những đồng lúa xanh tít mắt bất chợt nhớ đến mùi thơm ấy, mùi hương của rơm rạ và mùi của chén gạo thơm hương lúa mới. Cái mùi ấy ngan ngát trong lồng ngực không dễ quên của biết bao con người lớn lên từ ruộng đồng như tôi.
(6) […] Tôi lớn lên giữa mùi rơm rạ quê hương, mấy đứa bạn tôi giờ mỗi đứa một nơi. Có đứa qua xứ Tây Đô lập nghiệp, có đứa đi làm dâu tận vùng miệt thứ Cà Mau. Còn tôi… sống và làm việc ở phố thị xa hoa, đêm đêm nhớ nhà, nhớ mùi rơm rạ mà bật khóc. Chao ôi, cái mùi rạ nồng nồng khó tả.
(Nhiều tác giả, Nghĩa tình miền Tây, NXB Hồng Đức, 2022, tr. 41-44)
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
2.Thân bài:
a.Luận điểm 1: Cảm nhận, phân tích các đối tượng
a1. Cảm nhận, phân tích các đối tượng so sánh thứ 1
* Khái quát về nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, tác phẩm :
* Khái quát về câu chuyện Giàn bầu trước ngõ:
* Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của câu chuyện
– Nội dung:
+ Người đọc cảm nhận được sự khắc nghiệt của cuộc sống qua việc tác giả miêu tả giàn bầu trước ngõ.
+ Người đọc cũng cảm nhận được sự đoàn kết và tình yêu thương trong cộng đồng qua những câu chuyện nhỏ xung quanh giàn bầu.
– Nghệ thuật:
+ Nghệ thuật kể chuyện: sử dụng ngôi kể ngôi thứ nhất.
+ Sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, gần gũi nhưng rất sâu lắng và tinh tế.
+ Cách diễn đạt chân thực, gần gũi
+ Sử dụng các kỹ thuật miêu tả, tả cảnh rất tinh tế
a2. Cảm nhận, phân tích các đối tượng so sánh thứ 2
* Khái quát về tác giả, tác phẩm :
* Khái quát về câu chuyện Mùi rơm ra
* Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của câu chuyện
– Nội dung:
– Nghệ thuật:
+ Nghệ thuật kể chuyện: sử dụng ngôi kể ngôi thứ nhất.
+ Sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, gần gũi,và tinh tế, nhẹ nhàng
+ Cách diễn đạt chân thực, gần gũi
+ Đan xen giữa yếu tố tự sự, trữ tình.
b.Luận điểm 2: So sánh các đối tượng
b1.Nét tương đồng (Giống nhau)
Nghệ thuật: Cùng sử sụng ngôi kể thứ nhất, ngôn ngữ mộc mạc giản dị, gần gũi, yếu tố tự sự đan xen trữ tình nhẹ nhàng, tinh tế.
Nội dung đều xoay quan những câu chuyện đời thường xung quanh cuộc sống làng quê bình dị, thân thuộc. Thể hiện tình yêu quê hương con người, đất nước.
b2.Nét khác biệt (Khác nhau)
Giàn bầu trước ngõ của Nguyễn Ngọc Tư đã cho thấy được sự khắc nghiệt của cuộc sống, những câu chuyện về sự khó khăn trong quá khứ của con người miền Nam Bộ. Thì Mùi rơm rạ quê mình lại là những kí ức đẹp gắn bó với làng quê Miền Tây của tác giả.
c.Luận điểm 3: Lí giải sự tương đồng, khác biệt giữa hai đối tượng.
Hai tác giả cùng có lối viết nhẹ nhàng mà sâu sắc, cách khai thác chủ đề, phong cách sáng tác tuy nhiên mỗi nhà văn lại mang một nét riêng cho mình. Giọng văn Nguyễn Ngọc Tư đậm chất Nam bộ, là giọng kể mềm mại mà sâu cay về những cuộc đời éo le, những số phận chìm nổi. Cái chất miền quê sông nước ngấm vào các tác phẩm, thấm đẫm cái tình của làng, của đất, của những con người chân chất hồn hậu nhưng ít nhiều gặp những bất hạnh. Tác giả Ngọc Bích lai xoay quanh những câu chuyện con người Miền Tây sông nước với những nét đặc trưng riêng.
(Lưu ý: dựa vào bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng xuất hiện; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp thể loại của từng thời kì văn học …)
3.Kết bài:
-Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.
-Có thể rút ra ý kiến cá nhân về vấn đề.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Từ bao giờ văn chương lại đi vào cuộc sống con người? Cũng như bao loại hình nghệ thuật khác, văn chương như một món ăn tinh thần không thể thiếu của đời sống.Cuộc sống của chúng ta là tất cả những gì nhỏ bé tồn tại xung quanh tạo nên. Chính vì chúng quá nhỏ bé, không đáng kể nên hầu hết những người khao khát điều lớn lao kia dù vô tình hay cố ý, họ vẫn sẽ không quan tâm đến những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống. Để bày tỏ cảm nhận của mình về vấn đề ấy, không ít nhà văn đã viết nên những tác phẩm đề cao giá trị của cuộc sống đời thường. Một trong số đó là đoạn trích “Giàn bầu trước ngõ” của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, và Mùi rơm rạ quê mình của tác giả Ngọc Bích là những câu chuyện xoay quanh cuộc sống của con người miền sông nước gần gũi, thân thương.
Nguyễn Ngọc Tư sinh ra trong một gia đình nông dân ở Cà Mau. Là một cây bút vô cùng đặc biệt của nền văn học đương đại. Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn của mộc mạc và bình dị thôn quê. Độc giả yêu mến hay gọi cô bằng những cái tên thân thương như cô Tư. Các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư mang tính hiện thực sâu sắc khi khắc họa chân dung chân thực cùng những tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của tầng lớp lao động nghèo đồng bằng với một phong cách nghệ thuật chuẩn mực, tiêu biểu cho lối viết cô đọng và cô đọng của các nhà văn Nam Bộ. Tác phẩm Giàn bầu trước ngõ xoay quanh câu chuyện về một gia đình nghèo ở miền quê Việt Nam, với những khó khăn, gian khổ hàng ngày. Tuy nhiên, qua câu chuyện về cuộc sống của gia đình này, tác giả đã khắc họa rất chân thực và sâu sắc về tình yêu thương, lòng nhân ái và sự kiên trì trong cuộc sống. Tác phẩm đã gợi lên trong lòng độc giả những cảm xúc sâu lắng và những suy tư về ý nghĩa của cuộc sống. Giàn bầu trước ngõ đã để lại ấn tượng cho người đọc bởi giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Ngoài ra, nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm còn được thể hiện qua việc sử dụng ngôi kể ngôi thứ nhất. Tác giả đã chọn lựa ngôi kể này để tạo ra sự gần gũi, chân thực và chân thành trong cách truyền đạt câu chuyện. Nguyễn Ngọc Tư đã sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, gần gũi nhưng rất sâu lắng và tinh tế. Cách diễn đạt của tác giả rất chân thực, gần gũi, khiến cho độc giả cảm thấy như đang sống trong câu chuyện, cảm nhận được từng cung bậc cảm xúc của nhân vật. Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã khéo léo xây dựng hình ảnh người bà như một biểu tượng của tình yêu thương và sự hy sinh. càmg thêm yêu người bà thân yêu của mình hơn. Tác phẩm được viết bằng ngôi kể thứ nhất, dưới góc nhìn của nhân vật “Tôi”- một người con trong gia đình, người đọc có thể hình dung được cuộc sống thường nhật của gia đình trong câu chuyện. Hình ảnh giàn bầu xanh ngắt, vươn mình phủ kín sân nhà được miêu tả rất chi tiết bằng những quan sát tỉ mỉ. Diễn biến tâm lí của các nhân vật cũng được thể hiện rõ qua những cảm nhận và quan sát của nhân vật “Tôi”.
Mùi rơm rạ quê mình của tác giả Ngọc Bích là một trong những đoạn trích tiêu biểu đạt giải trong cuộc thi viết Nghĩa tình miền Tây do nhiều tác giả đồng sáng tác, cuốn nhật ký đẫm màu hoài niệm, đầy cung bậc cảm xúc của các tác giả trên mọi miền đất nước và cả người Việt đang học tập, sinh sống ở nước ngoài, về tình đất và người miền Tây”. Quê hương là nơi ta sinh ra và lớn lên. Đó là nơi gắn nhiều với kỉ niệm không thể nào quên. Với tác giả Ngọc Bích, kí ức của tác giả đối với quê hương gắn liền với mùi rơm rạ thuở nhỏ. Qua “Mùi rơm rạ quê mình”, người đọc có thể thấy được sự hiện hữu của quê hương trong trái tim tác giả thông qua nỗi nhớ về mùi rơm rạ ngày bé.Từ việc tái hiện những kí ức thân thương với cánh đồng, mùi rơm rạ quê hương; tác giả bộc lộ tình yêu thương, nỗi nhớ mong kỉ niệm xưa, đồng thời gián tiếp bộc lộ tình yêu quê hương, đất nước. Việc chọn lựa một mùi hương thân thuộc mà bình dị của đồng quê như mùa rơm rạ làm trung tâm của bài viết thay vì những gì cao cả, lớn lao là một cách độc đáo để thể hiện tình yêu quê hương. Qua những sự vật gần gũi, nhỏ bé, ta càng thấy được người viết gắn bó với quê hương sâu sắc, yêu quê hương từ những gì bình dị nhất. Mùi rơm rạ đã gợi lại cho tác giả nhớ đến những kí ức tuổi thơ, những kỉ niệm thân thương gắn với mùi rơm rạ, mùi hương rơm rạ bao hàm tất cả những mùi hương khác của quê hương, gia đình. Qua đó ta thấy được tình yêu của tác giả đối với quê hương mình. Đó là những kí ức không thể nào phai mờ được gửi gắm qua mùi rơm rạ. Kí ức đó mãi mãi đọng lại trong tâm thức của tác giả. Việc sử dụng ngôi kể ngôi thứ nhất. Tác giả đã chọn lựa ngôi kể này để tạo ra sự gần gũi, chân thực và chân thành trong cách truyền đạt câu chuyện, ngôn ngữ mộc mạc, gần gũi nhưng rất sâu lắng và tinh tế. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố tự sự, trữ tình sâu lắng. Việc kết hợp này góp phần làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho diễn đạt; Vừa giúp tái hiện những kí ức tuổi thơ gắn với cánh đồng quê, vừa bộc lộ trực tiếp tâm tư, tình cảm của tác giả.
Hai tác phẩm trên đều có những nét tương đồng, khác biệt. Cùng sử sụng ngôi kể thứ nhất, ngôn ngữ mộc mạc giản dị, gần gũi, yếu tố tự sự đan xen trữ tình nhẹ nhàng, tinh tế. Nội dung đều xoay quan những câu chuyện đời thường xung quanh cuộc sống làng quê bình dị, thân thuộc. Tuy nhiên nếu Giàn bầu trước ngõ của Nguyễn Ngọc Tư đã cho thấy được sự khắc nghiệt của cuộc sống, những câu chuyện về sự khó khăn trong quá khứ cơ cực của người dân miền Nam Bộ. Thì Mùi rơm rạ quê mình lại là những kí ức đẹp gắn bó với làng quê trên mảnh đất Miền Tây tác giả. Hai tác giả cùng có lối viết nhẹ nhàng mà sâu sắc, cách khai thác chủ đề, phong cách sáng tác tuy nhiên mỗi nhà văn lại mang một nét riêng cho mình. Giọng văn Nguyễn Ngọc Tư đậm chất Nam bộ, là giọng kể mềm mại mà sâu cay về những cuộc đời éo le, những số phận chìm nổi. Cái chất miền quê sông nước ngấm vào các tác phẩm, thấm đẫm cái tình của làng, của đất, của những con người chân chất hồn hậu nhưng ít nhiều gặp những bất hạnh. Tác giả Ngọc Bích lai xoay quanh những câu chuyện con người Miền Tây sông nước với những nét đặc trưng riêng.
Một người nghệ sĩ thật sự là người truyền sự sống, đốt lửa cho tâm hồn độc giả giữa cuộc đời khô cằn. Một tác phẩm văn học chỉ thực sự có giá trị khi nó hướng con người tới cái đẹp, cái thiện, tới những giá trị nhân văn cao cả, khi nó in đậm dấu ấn riêng của người cầm bút trên từng con chữ để tạo thành một chỉnh thể mang tính thẩm mĩ cao. Khi đạt được những yêu cầu ấy, văn chương nghệ thuật thực sự khẳng định được vai trò thiết yếu của mình đối với con người ở mọi nơi, mọi thời. Và hai tác phẩm Giàn bầu trước ngõ, Mùi rơm rạ quê mình đều là những tác phẩm mang lại những giá trị tinh thần sâu sắc, bồi đắp tình yêu quê hương tình yêu đất nước để rồi sống trong lòng bạn đọc.
[1] Ngan ngát: (mùi thơm) lan tỏa và bay xa.