DẠNG ĐỀ PHÂN TÍCH NGHỆ THUẬT TỰ SỰ CỦA TRUYỆN NGẮN/ĐOẠN TRÍCH TRUYỆN
A) DÀN Ý CHUNG
Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận (nghệ thuật tự sự)
VD: [Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm]. Không chỉ có giá trị về mặt tư tưởng, [tác phẩm] còn đặc sắc về nghệ thuật tự sự. Đoạn trích [từ “…” đến “…”] đã biểu hiện rõ tài năng độc đáo của [tác giả] trong cách kể, cách trần thuật câu chuyện một cách ấn tượng.
Thân bài:
1) Phạm vi phản ánh, cấu trúc của đoạn trích:
– Phạm vi phản ánh của đoạn trích mang tính điển hình của một tác phẩm truyện ngắn: tập trung vào một vài sự kiện – là những lát cắt nhỏ của đời sống. (Chỉ ra các sự kiện chính)
– Cấu trúc đoạn trích truyền thống hay cách tân?
+ Mang dáng dấp của cách kể truyền thống: kể theo trình tự tuyến tính, sự kiện diễn ra trước kể trước, diễn ra sau kể sau, có trật tự logic. (Chỉ ra tiến trình các sự kiện)
+ Mang dáng dấp của cách kể hiện đại, phá cách cấu trúc truyền thống chặt chẽ: đảo lộn các sự kiện, chi tiết giữa hiện tại – quá khứ. (Chỉ ra sự kiện nào được kể trước, mở đầu câu chuyện rồi mới hồi cố về quá khứ)
2) Xây dựng tình huống truyện: Đoạn trích xây dựng cốt truyện tự nhiên, xoay quanh nhân vật A là nhân vật trung tâm với B, C… là các tuyến nhân vật phụ làm hiện lên thế giới sinh động của tác phẩm. Đặc biệt, đoạn trích tập trung khắc họa một tình huống khá ấn tượng.
– Tái hiện tình huống
– Đánh giá, phân tích ngắn gọn đặc điểm, ý nghĩa của tình huống
3) Người kể chuyện:
a) Ngôi kể: thứ ba hay thứ nhất?
+ Thứ ba -> khách quan, toàn diện, người kể biết hết mọi không gian, hành động, suy nghĩ của nhân vật, thậm chí tỏ tường cả những không gian không có sự tham gia của nhân vật chính
+ Thứ nhất -> tạo cảm giác là người trong cuộc, ảnh hưởng tới tính chân thực của truyện kể, tuy nhiên lại nhất phiến và đầy tính chủ quan
b) Điểm nhìn trần thuật: bên ngoài, bên trong hay cả hai?
+ Bên ngoài -> tập trung vào hành động, lời nói, các mối quan hệ của nhân vật, làm nổi bật tính chất đời thường của con người (Phân tích hành động, lời nói và các mối quan hệ)
+ Bên trong -> ít hành động, lời nói, không có những xung đột kịch tính dồn dập từ các mối quan hệ bên ngoài nhưng lại chú ý diễn tả thế giới nội tâm đa diện, phức tạp bên trong + Hình thức trần thuật nửa trực tiếp, tác giả hóa thân vào nhân vật để kể chuyện và bộc bạch nỗi lòng. (Phân tích cuộc đấu tranh nội tâm của nhân vật trong truyện xoay quanh những trăn trở về vấn đề gì để làm rõ ý này)
c) Khoảng cách trần thuật của người kể chuyện và nhân vật:
– Gần gũi, thân thiết -> cảm thông, thậm chí bao biện cho lỗi lầm của nhân vật
– Giữ khoảng cách nhất định với nhân vật -> cái nhìn bao quát, đầy đủ và không thiên vị, không vị cảm xúc chủ quan chi phối đến khả năng đánh giá, nêu quan điểm, tư tưởng
4) Giọng điệu trần thuật:
+ Cảm thông, chua xót, đau đớn cho thân phận, nỗi đau của nhân vật
+ Phê phán, tố cáo nghiêm khắc hành vi sai trái của nhân vật hoặc mặt trái của xã hội
+ Trân trọng, ca ngợi những vẻ đẹp nhân cách, lựa chọn, lí tưởng sống… của nhân vật./ Gửi gắm niềm tin vào chiến thắng tất yếu của cái thiện, khả năng cải tổ, hướng thiện của đời sống và con người.
5) Ngôn ngữ trần thuật:
– Phong cách ngôn ngữ trần thuật của tác giả:
+ Giản dị, mộc mạc, chân thành, gần với lời ăn tiếng nói của nhân dân
+ Hài hước, hóm hỉnh, bông đùa, có khi giễu cợt
+ Giàu tính triết lí, chiêm nghiệm, suy tư về cuộc đời và con người
+ Lãng mạn, trữ tình, nhẹ nhàng, bay bổng, đầy chất thơ và đong đầy cảm xúc
– Tác giả thường sử dụng các kĩ thuật, biện pháp nghệ thuật gì trong tổ chức ngôn ngữ? (VD: sử dụng nhiều tính từ gợi tả, từ tượng hình, tượng thanh, các động từ mạnh; phép ẩn dụ, so sánh,… câu đơn hay câu ghép, câu dài hay câu ngắn hay đan xen?… thường chỉ là lời kể, tả hay còn bình luận, đánh giá, nhận xét, thể hiện thái độ, cảm xúc?…)
6) Đánh giá giá trị nội dung:
– Truyện hướng về chủ đề gì? Đối tượng phản ánh là ai?
– Phản ánh xã hội như thế nào?
– Phản ánh con người như thế nào?
– Câu chốt: Tất cả điều này gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc nhờ một nghệ thuật tự sự có chiều sâu, giàu sức thuyết phục.
III. Kết bài: Tổng kết ý nghĩa của vấn đề, khẳng định tác phẩm và tài năng của tác giả
VD1: Có những tác phẩm ra đời như “bươm bướm nở ngày xuân, như chuồn chuồn vỡ tổ” khiến chúng ta đọc xong quên ngay, đến khi cầm lại mới ngỡ như mình đã đọc rồi. Nhưng cũng có những tác phẩm như dòng sông chảy qua tâm hồn ta để lại những ấn tượng chạm khắc trong tâm khảm. Và tác phẩm [tên] cũng là một sự chạm khắc như thế. Nghệ thuật tự sự của văn bản là một yếu tố đặc biệt góp phần làm nên sự thành công cho tác phẩm.
VD2: Hoài Thanh trong “ý nghĩ văn chương” đã từng viết: “Từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Và tôi nghĩ, áng văn [tác phẩm] của [tác giả] chính là minh chứng cho câu nói đó. Tác phẩm đã xây dựng một nghệ thuật tự sự độc đáo để góp phần làm nên sự thành công cho tác phẩm.
VD3: Soi vào thực tế văn học, tôi chợt hiểu vì sao có những nhà văn suốt cả cuộc đời không tạo nên được một tác phẩm có giá trị đích thực, để rồi phải ngậm đắng nuốt cay, than thở sự bạc bẽo của nghề văn. Và vì sao lại có những nghệ sĩ lớn như [tác giả]. [tác phẩm] chính là một minh chứng không thừa nhận định luật băng hoại của thời gian, đã để lại nhiều giá trị, trong đó có nghệ thuật tự sự đặc sắc.