HƯỚNG DẪN ĐƯA LÍ LUẬN VĂN HỌC VÀO BÀI VIẾT
- Áp dụng vào mở bài
Ví dụ: Phân tích hình tượng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân
Thay vì viết:
Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc. Đó là người nông dân có tình yêu làng và yêu nước sâu sắc, hai tình yêu này hòa quyện với nhau tạo nên dấu ấn khó phai về nhân vật. Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện ở mọi lúc, mọi nơi, nó ngấm vào máu thịt trong ông. Tình yêu ấy có thể chia làm ba chặng chính: tình yêu làng khi ông Hai ở làng tản cư; tình yêu làng, yêu nước khi ông Hai nghe tin làng mình theo Việt gian; tình yêu làng, yêu nước khi ông nghe tin cải chính.
=> CHÚNG TA SẼ VIẾT:
Một tác phẩm văn học chỉ thực sự có giá trị khi nó cất lên tiếng nói của con người, ca ngợi và bảo vệ con người. Bởi thế Nam Cao từng nói: “ Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp sống lầm than” (Trăng Sáng). Văn chương là vậy, nó vẫn luôn đẹp một cách đặc biệt nhất. Phải chăng chính vì thế mà các nhà thơ, nhà văn luôn tạo ra những nét riêng cho mình bằng việc xây dựng lên những hình tượng nhân vật độc đáo chở nặng tâm tư của tác giả. Điều đó được thể hiện rõ qua nhân vật ông Hai trong tác phẩm “Làng” của nhà văn Kim Lân. Sự tinh tế, độc đáo trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật của nhà văn Kim Lân đã góp phần chắp cánh cho tác phẩm vút bay trên bầu trời văn đàn dân tộc
Bài tập: Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ
Mẫu mở bài số 1:
Nam Cao đã từng bộc bạch: “Một tác phẩm thật giá trị phải là một tác phẩm vượt lên trên bờ cõi và giới hạn; phải chứa đựng một cái gì lớn lao mạnh mẽ, lại vừa đau đớn phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, sự bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn”. Phải chăng vì thế mà (tác phẩm) của (tác giả) cứ ám ảnh hồn ta mãi. + Liên kết vấn đề nghị luận.
Mẫu mở bài số 2:
Bêlinxki từng viết: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc không trả lời câu hỏi đó”. Nhận định trên khiến chúng ta nhớ về (tác phẩm) của (tác giả) – một tác phẩm vượt lên trên bờ cõi và giới hạn để rồi nở rực trong vườn văn học Việt Nam hiện đại. + Liên kết và nêu vấn đề nghị luận.
Mẫu mở bài số 3:
Tác giả Nguyễn Ngọc Tư từng tâm sự: “Gì lửng lơ cũng được, chỉ tình yêu là không”. Lời viết ấy khiến cho bao trái tim rung lên những nhịp bồi hồi, tự nhìn lại tình yêu của chính mình đang giữ. Thế nhưng khi đọc dòng viết này, trong tôi lại trào lên biết bao nghĩ suy về thế giới văn chương, nghệ thuật. Bởi vì nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo thế nên những người nghệ sĩ sáng tác vốn dĩ không thể “lửng lơ” trong điều mình nghĩ, mình viết. Sứ mệnh của nhà văn chẳng phải là đi đến tận cùng để tìm ra “giọng nói của riêng mình” hay sao? Đọc tác phẩm (tên tác phẩm), ta càng thấm thía hơn giá trị nhân văn mà (tên tác giả) đã truyền tải qua những trang văn không chút “lửng lơ” của mình + Liên kết vấn đề nghị luận.
CẤP ĐỘ 3: MỞ BÀI BẰNG CÁCH SO SÁNH
Hay gọi cách khác là sự liên tưởng. Từ đề bài các em có liên tưởng, so sánh đến một vấn đề, tác phẩm nào khác có nét tương đồng hoặc không tương đồng với vấn đề được đưa ra.
VD:
Cùng viết về mùa xuân mà sao ta thấy “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải lại mang những nét gì đó rất độc đáo và riêng biệt, không có sắc vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có sắc đỏ của hoa đào, càng không phải một mùa xuân với sức sống mãnh liệt, gấp gáp căng tràn nhựa sống như “Vội Vàng” của Xuân Diệu mà mùa xuân của Thanh Hải mang những nét đẹp nhẹ nhàng, trong sáng và chan chứa tình yêu đậm đà, tình nghĩa. Cách xây dựng bức tranh mùa xuân của Thanh Hải không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp tự nhiên mà còn là những khát vọng và ước nguyện chân thành của thi nhân khi muốn dành tặng những gì tươi đẹp nhất của cuộc đời cho đất nước. Khi đứng trước mùa xuân, trái tim của thi nhân đã rung lên, cất tiếng hát yêu đời, đắm say, ngây ngất trước những vẻ đẹp của cuộc đời. Chính vì vậy, MXNN của Thanh Hải luôn sống mãi trong lòng độc giả. (Nêu ra VĐNL)
VĐNL: Đọc bài thơ ta không thể quên được cảm xúc của nhà thơ trước vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên mùa xuân đất trời xứ Huế được diễn tả sâu sắc qua khổ thơ đầu.
CẤP ĐỘ 4: MỞ BÀI BẰNG PHẢN ĐỀ
VD:
Có ý kiến cho rằng: “ Kim Lân chỉ chú tâm miêu tả hiện thực tàn khốc trong nạn đói thê thảm mùa xuân năm 1945”. Thế nhưng khi đến với “Lão Hạc”, cái mà người đọc cảm nhận được ấy không phải chỉ là hiện thực tàn khốc của cái đói, mà hơn cả, điều mà Kim Lân muốn nói đến chính là vẻ đẹp của con người – vẻ đẹp của những người nông dân nghèo vẫn sáng ngời lên dưới cái đói khát, xơ xác của hiện thực. (Nêu VĐNL)
VĐNL: Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên là một trong những nhân vật “để đời” của Nam Cao. Lão Hạc, một nông dân nghèo khổ, cùng quẫn, nhưng không bị biến chất như Chí Phèo, mà trái lại có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao thượng.
Lưu ý: Đây có thể coi là một trong số những cách mở bài khó nhất, đòi hỏi ở các em phải có kiến thức nền tốt, có sự tìm tòi, nghiên cứu sâu rộng. Từ một góc nhìn khác, em nhận thấy được mặt trái, khẳng định nó là sai để từ đó đưa ra mặt đúng của vấn đề.
Hãy thử thay thế cách viết “Nhà văn A đã từng nói…” bằng 1 trong 5 cách diễn đạt sau đây nha:
- Trải qua những tháng năm cầm bút sáng tác miệt mài, nhà văn A đã đúc kết ra….
- Trong những trang viết của nhà văn A, tôi tâm đắc với…
- Đắm mình vào dòng chảy của cuộc sống và văn học, nhà văn A đã từng chia sẻ…
- Nghĩ về văn chương, về cuộc đời, về con người, nhà văn A từng tâm sự…
- Trong muôn vàn lối đi mà văn chương mở ra, nhà văn A đã chọn cho mình lối đi riêng với những tâm niệm….
- Áp dụng vào luận điểm
Ví dụ: 2 câu đầu bài thơ “Bếp lửa”
Thay vì viết:
Mở đầu bài thơ là hình ảnh “bếp lửa” – nơi khơi nguồn cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng về người bà kính yêu:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
=> CHÚNG TA SẼ VIẾT: Đối với những bài viết về nỗi nhớ
Ví dụ 1:
Nhà thơ Puskin từng nói rằng: “Thơ được tạo ra từ cơn động kinh của tâm hồn. Đó là cú đại địa chấn được dồn ứ từ những biến cố, những kỉ niệm, có khi là nỗi nhớ quặn lòng.” Và phải chăng khi “kỉ niệm” và “cảm xúc” đã đong đầy trong nỗi nhớ cũng là lúc mà hồn thơ Bằng Việt bật lên những trang viết thiết tha:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Ví dụ 2:
- Bài Gặp lá cơm nếp – Thanh Thảo
Nhà thơ Puskin từng nói rằng: “Thơ được tạo ra từ cơn động kinh của tâm hồn. Đó là cú đại địa chấn được dồn ứ từ những biến cố, những kỉ niệm, có khi là nỗi nhớ quặn lòng.” Và phải chăng khi “kỉ niệm” và “cảm xúc” đã đong đầy trong nỗi nhớ cũng là lúc mà hồn thơ Thanh Thảo bật lên những trang viết thiết tha:
Xa nhà đã mấy năm
Thèm bát xôi mùa gặt
Khói bay ngang tầm mắt
Mùi xôi sao lạ lùng
Ví dụ 3:
Nhà thơ Puskin từng nói rằng: “Thơ được tạo ra từ cơn động kinh của tâm hồn. Đó là cú đại địa chấn được dồn ứ từ những biến cố, những kỉ niệm, có khi là nỗi nhớ quặn lòng.” Và phải chăng khi “cảm xúc” và “nỗi nhớ” đã đong đầy trong tâm tưởng cũng là lúc mà hồn thơ của Viễn Phương bật lên những trang viết thiết tha với những cảm xúc khi vừa đặt chân đến lăng Bác:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng bác
…….”
- Áp dụng vào phân tích thơ
Ví dụ : Phân tích 6 câu thơ trong “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Thay vì viết:
Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên mùa xuân mang sắc màu và âm thanh quen thuộc của đồng quê được vẽ bằng hình ảnh bình dị, chọn lọc, gợi cảm:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Rồi sau đó các bạn phân tích lần lượt từng câu thơ…..
=> CHÚNG TA SẼ VIẾT:
Bàn về tính nhạc trong thơ tác giả Trần Thiện Thanh cho rằng: “Thi nhân phổ nhạc cho thơ, tiếng thơ vang ngân trong không gian, tạo thành các “bước sóng” gõ cửa tâm hồn độc giả”. Ở khổ thơ một Thanh Hải đã vô cùng khéo léo, linh hoạt trong cách ngắt nhịp thơ 2/3, 3/2 đan xen khiến người đọc cảm thấy mình đang đứng trước một khúc nhạc chứ không chỉ đứng trước một bài thơ đơn thuần. Việc sử dụng những hình ảnh giàu tính tạo hình và biểu tượng: dòng sông xanh,bông hoa tím, tiếng chim ngân vang thể hiện cảm xúc say sưa, ngây ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân, mong muốn hoà vào thiên nhiên đất trời trong tâm tưởng giữa mùa đông giá lạnh khiến ta vô cùng khâm phục. Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân đất trời thể hiện qua cái nhìn trìu mến với cảnh vật, trong những lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên “ơi, hót chi… mà…” làm cho câu thơ như trải dài, ngân vang khắp khoảng trời xứ Huế……
Ví dụ: Đồng dao mùa xuân
Khổ 1:
Có một người lính
Đi vào núi xanh
Những năm máu lửa
Bàn về tính nhạc trong thơ tác giả Trần Thiện Thanh cho rằng: “Thi nhân phổ nhạc cho thơ, tiếng thơ vang ngân trong không gian, tạo thành các “bước sóng” gõ cửa tâm hồn độc giả. Ở đoạn thơ trên Nguyễn Khoa Điềm đã vô cùng khéo léo, linh hoạt trong cách ngắt nhịp thơ 3/2, 1/3 đan xen khiến người đọc cảm thấy mình như đang đứng trước một khúc nhạc chứ không phải chỉ đứng trước một bài thơ đơn thuần.
Ghi chú: Đối với thơ tự do -> Ngắt nhịp linh hoạt
- Áp dụng vào phân tích nghệ thuật ngôn từ
Ví dụ: Phân tích câu thơ: Sang Thu – Hữu Thỉnh
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Thay vì viết:
Khép lại khổ thơ là hình ảnh đám mây được nhân hóa với hành động “vắt nửa mình”. Hình ảnh thơ rất giàu tính chất tạo hình trong không gian và có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian. Đám mây trắng buốt mềm mại trải dài như một tấm lụa treo ngang trên bầu trời, rất nhẹ nhàng, duyên dáng. Và mây cũng chính là ranh giới chao nghiêng giữa hai mùa hạ – thu. Cảnh vật trở nên vừa hư lại vừa thực, đó là sản phẩm của trí tưởng tượng rất nên thơ và hết sức độc đáo, mới mẻ của tác giả. Tóm lại, với một hệ thống những hình ảnh đẹp, giàu tính chất tạo hình trong không gian, kết hợp với nghệ thuật nhân hóa, tương phản, nhà thơ đã khắc họa thành công khung cảnh trời đất khi bắt đầu vào thu thật sống động, tinh tế, nhẹ nhàng.
=> CHÚNG TA SẼ VIẾT
Ngôn từ là tinh hoa quý giá nhất của người làm thơ. Người làm thơ cũng như kẻ làm vườn vậy, phải chăm chút sao cho vườn hoa ngôn ngữ của mình nở ra những bông hoa đẹp nhất. Thế mới có ý kiến: “Làm thơ là cân một nghìn milligram quặng chữ”. Với ý niệm ấy chữ “vắt” xứng đáng là nhãn tự của câu thơ, là tinh hoa của cả câu thơ này. Hữu Thỉnh dùng động từ “vắt” để gợi ra trong thời điểm giao mùa, đám mây như kéo dài ra, nhẹ trôi như tấm lụa mềm treo lơ lửng giữa bầu trời trong xanh, cao rộng. Đám mây ấy dường như nó vẫn còn vương vấn ánh nắng ấm áp của mùa hạ nên chỉ “vắt nửa mình sang thu”. Nó đã tạo nên một lằn ranh giới mỏng manh, hư ảo. Có lẽ, thực tế sẽ không thể nào có áng mây bé nhỏ nào như thế. Đó chỉ là sự liên tưởng đầy thú vị của thi sĩ. Tất cả góp phần tạo nên một thời khắc giao mùa đầy chất thơ, tinh tế và nhạy cảm, độc đáo nhưng bâng khuâng trong không gian êm dịu của mùa thu.
Ví dụ 2: Phân tích câu thơ: Quê Hương – Tế Hanh
“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”
Ngôn từ là tinh hoa quý giá nhất của người làm thơ. Người làm thơ cũng như kẻ làm vườn vậy, phải chăm chút sao cho vườn hoa ngôn ngữ của mình nở ra những bông hoa đẹp nhất. Thế mới có ý kiến: “Làm thơ là cân một nghìn milligram quặng chữ”. Với ý niệm ấy câu thơ “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng” xứng đáng là nhãn cú của bài thơ, là tinh hoa của cả bài thơ này.
Có nhiều bạn thắc mắc tại sao mình viết đúng hướng, đủ ý, phân tích được hết những thứ đề yêu cầu nhưng điểm vẫn không cao? Đó là do các bạn chưa tạo được sức nặng, điểm rơi cho bài viết của mình. Vậy cách nào làm được điều đó? Bên cạnh những câu từ bay bổng, lời văn hình ảnh thì việc đưa lý luận văn học vào bài làm của mình rất quan trọng.
- Khi viết về hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm: Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ hoặc Truyện Kiều – Nguyễn Du
Lao động của nhà văn là một hoạt động tinh thần đầy khổ luyện. Để có những tác phẩm hấp dẫn, nhà văn phải lăn lộn với đời. Nói như Nam Cao “Hãy sống đã rồi mới viết”, còn thi sĩ Xuân Diệu “Hãy biết ơn vị muối của đời để thơ có thêm chất mặn” . Chính cuộc đời cơ cực, sớm vào đời sớm của Kim Lân, những trải nghiệm của ông trong những năm tháng đói khổ mà người dân Việt Nam hay còn gọi là nạn đói, hiện thực ấy chính là chất liệu để Kim Lân viết lên tác phẩm “Vợ nhặt”. Chính những ngày tháng cùng bộ đội lên giải phóng Tây Bắc, những trải nghiệm ấy đã giúp nhà thơ Tố Hữu có chất liệu hiện thực để viết lên tập “Tây Bắc”.
VD: MXNN
Lao động của nhà thơ là một hoạt động tinh thần đầy khổ luyện. Để có những tác phẩm hấp dẫn, nhà thơ phải lăn lộn với đời. Nói như thi sĩ Xuân Diệu: “Hãy biết ơn vị muối của đời để thơ có thêm chất mặn”. Chính cuộc đời đầy những trải nghiệm, cống hiến và hi sinh của Thanh Hải, đã là chất liệu để thi sĩ viết lên tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ. Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt vào tháng 11 năm 1980 khi tác giả đang nằm trên giường bệnh không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời, thể hiện niềm yêu mến cuộc sống đất nước thiết tha và ước nguyện của tác giả.
Bài Hà Linh:
Lao động của nhà văn là một hoạt động tinh thần đầy khổ luyện. Để có những tác phẩm hấp dẫn, nhà văn phải lăn lội với đời . Nói như Nam Cao ‘ “Hãy sống đã rồi mới viết” ’’, còn thi sĩ Xuân Diệu: “Hãy biết ơn vị muối của đời để thơ có thêm chất mặn’’. Chính hơn 10 năm gió bụi, sống lang thang, lăn lộn ở các vùng quê nghèo khó khác nhau đặc biệt lần đi sứ sang Trung Quốc vào năm 1813 đã đưa ông đến với tác phẩm “Kim Vân Kiều truyện’’ của Thanh Tâm Tài Nhân. Để rồi bằng tài hoa, sự sáng tạo của bản thân, Đại Thi Hào Nguyễn Du đã viết nên ‘Truyện Kiều’’- kết tinh của giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo sâu sắc.
- Khi phân tích hình tượng nhân vật: Vũ Nương hoặc Thuý Kiều
Có ai đó từng nói: “Qua thân phận một con người, một cuộc đời, một cảnh ngộ, văn học có khả năng khái quát được cả xã hội”, “qua một giọt nước thấy được đại dương”, “một vân gỗ thấy cuộc đời trăm năm thảo mộc”,… Sức nặng của hình tượng nghệ thuật là khả năng khái quát. Qua cuộc đời bà cụ Tứ, ta thấy được hình ảnh của bao nhiều người mẹ, người phụ nữ Việt Nam chịu thương, chịu khó. Qua nhân vật người đàn bà làng chài, ta thấy được những mảnh đời kham khổ của dân lao động khi chiến tranh vừa mới qua đi.
Bài của Tuệ Nhi
Có ai đó từng nói: “Qua thân phận một con người, một cuộc đời, một cảnh ngộ, văn học có khả năng khái quát được cả xã hội”, “qua một giọt nước thấy được đại dương”, “một vân gỗ thấy cuộc đời trăm năm thảo mộc”,… Sức nặng của hình tượng nghệ thuật là khả năng khái quát. Qua cuộc đời nhân vật Vũ Nương, ta thấy được số phận bi kịch của những người phụ nữ trong XHPK xưa. Họ là những người thông minh, xinh đẹp nhưng lại có số phận oan trái. Không những thế, ta còn cảm nhận được những khổ đau, bất hạnh mà họ phải chịu đựng trong xã hội nam quyền hà khắc, bất công.
- Khi nêu tình cảm của tác giả đối với nhân vật: Nguyễn Dữ hoặc Nguyễn Du, Kim Lân, Nguyễn Quang Sáng.
Văn học là một loại hình nghệ thuật vừa phản ánh khách thể, vừa bộc lộ chủ thể hiện thực đi vào văn học không lạnh lùng khái quát mà thấm đẫm cảm xúc của người nghệ sĩ. Vì vậy đằng sau đối tượng miêu tả bao giờ cũng bắt gặp một ánh mắt, một cách nhìn của nhà văn… Giống như nhận định: “Một nhà văn chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”, ta thấy được sự đồng cảm, xót thương của Kim Lân đối với người dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Bài của Huyền:
Văn học là một loại hình nghệ thuật vừa phản ánh khách thể, vừa bộc lộ chủ thể. Hiện thực đi vào văn học không lạnh lùng khái quát mà thấm đẫm cảm xúc của người nghệ sĩ. Vì vậy, đằng sau đối tượng miêu tả bao giờ cũng bắt gặp một ánh mắt, một cách nhìn của nhà văn ….Giống như nhận định “Một nhà văn chân chính phải nhà nhân đạo từ trong cốt tủy’’, ta thấy được sự đồng cảm, xót thương, ngợi ca của Nguyễn Du dành cho người phụ nữ trong xã hội xưa, đặc biệt qua nhân vật nàng Kiều.
2 bút pháp:
+ Tả cảnh ngụ tình: Lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để miêu tả nỗi buồn của con người.
+ Ước lệ tượng trưng: Lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để miêu tả vẻ đẹp của con người.
- Khi viết về ý nghĩa hình tượng nhân vật: Vũ Nương, Trương Sinh, Thuý Kiều, Thuý Vân
Nếu thơ tôn trọng mạch chạy cảm xúc của nhân vật trữ tình, thì với truyện nhân vật là phương tiện quan trọng nhất để nhà văn khái quát hiện thực, gửi gắm ý đồ tư tưởng của mình. Không phải ngẫu nhiên tên tuổi nhân văn thường gắn với tên nhân vật. Như Chí Phèo – Nam Cao, Tràng – Kim Lân, Mị – Tô Hoài…
LĐ cuối – Đánh giá:
Nghệ thuật: Chuyện người con gái Nam Xương, Truyện Kiều
“Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả… Nếu anh không có giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà văn thực thụ”
“Cái quan trọng trong tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kỳ tài năng nào, là cái màn tôi muốn gọi là tiếng nói của riêng mình.”
“Một công dân có một dạng vân tay. Mỗi nhà thơ có một dạng vân chữ. Không trộn lẫn.”
“Văn chương không có gì riêng sẽ không là gì cả”
“Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng của mình, tìm thấy những ấn tượng có giá trị khái quát và biết làm những ấn tượng ấy có hình thức riêng”
Nội dung:
Tấm lòng:
Liên hệ: tác phẩm cùng thời, đời sống thực tại, bản thân.