📘 Tải 100+ tài liệu nghị luận văn học, 100+ đề thi học sinh giỏi ... chỉ 1 Click

Làm Sáng Tỏ Quan Niệm Thơ Của Chế Lan Viên Qua Bài Thơ Tiếng Trẻ Học Bài

Đề bài
Trong bài thơ “Như cốm mùa thu” nhà thơ Chế Lan Viên có viết:
“Những yêu thương của lòng tôi, tôi gói
Trong lá thơ vừa hái ở đời lên.”
Trích Di cảo thơ Chế Lan Viên, NXB Hội Nhà văn, 2023)
Em hiểu quan niệm thơ trên như thế nào?Hãy làm sáng tỏ qua việc phân tích bài thơ sau:
TIẾNG TRẺ HỌC BÀI
Vương Trọng (*)
Trẻ hơn tiếng gà tập gáy
Khi mùa về thóc vàng sân phơi
Sớm hơn tiếng chim chèo bẻo
Vắt vẻo ngọn tre mỗi sáng gọi người.
Tiếng trẻ học bài
Như một mầm măng
Xuyên vào sáng sớm.
Ở đây gần chiến trường
Không gian rung nhiều tiếng động
Vẫn có phút giây yên lặng
Cho rễ làm củ, cho nụ làm hoa
Bình minh về đậu trên trang sách Mang tiếng trẻ học bài vang xa
Từ những ngôi nhà ba bề ụ đất
Thức vườn rau xanh tỉnh giấc
Hạt sương căng tròn, lung linh
Hố bom ngơ ngác lắng thinh
Không hiểu nổi âm thanh kỳ diệu.
Một nhà
Hai ba nhà
Cả làng tôi như nhà nào cũng vang tiếng trẻ
Bài ca dao
Bài sử ký
Gọi mặt trời lên
Tiếp một ngày đánh Mỹ.
Khẩu trung liên trên đê
Khẩu pháo ngoài trận địa
Cởi áo bạt lắng nghe
Tiếng trẻ học bài.
1970
(Vương Trọng, Thơ với tuổi thơ, NXB Kim Đồng, 2002)
(*) Vương Trọng sinh năm 1943, tên thật là Vương Đình Trọng, quê ở tỉnh Nghệ An, là tác giả của nhiều tập thơ về để tải chiến tranh, tình yêu quê hương, đất nước, gia đình,… Ông được nhận Giải thưởng Nhà nước năm 2007.

Dàn ý chi tiết

I. MỞ BÀI

Giới thiệu quan niệm về sáng tác thơ: thơ là tiếng nói của cảm xúc và cuộc đời.

Dẫn lời Chế Lan Viên:
“Những yêu thương của lòng tôi, tôi gói
Trong lá thơ vừa hái ở đời lên.”

Khẳng định: Quan niệm cho thấy thơ ca bắt nguồn từ cảm xúc chân thànhhiện thực đời sống; bài thơ Tiếng trẻ học bài là minh chứng tiêu biểu.

II. THÂN BÀI

1. Giải thích quan niệm của Chế Lan Viên

a. “Những yêu thương của lòng tôi”

Là thế giới cảm xúc sâu kín: yêu thương, xót xa, hy vọng, trăn trở… của thi sĩ.

Thơ phải bắt nguồn từ tình cảm thật, rung động thật của người viết.

b. “Tôi gói… trong lá thơ”

“Gói”: gửi gắm, chưng cất, thăng hoa cảm xúc thành nghệ thuật.

“Lá thơ”: biểu tượng của ngôn ngữ thi ca, tinh luyện, cô đọng, giàu sức gợi.

c. “Vừa hái ở đời lên”

Thơ không tách rời cuộc sống: bắt nguồn từ trải nghiệm, quan sát, hiện thực đang diễn ra.

Không có đời sống → không có thơ ca thật sự.
→ Quan niệm khẳng định: thơ = cảm xúc chân thành + hiện thực đời sống được nhà thơ tinh luyện thành nghệ thuật.

2. Bài thơ Tiếng trẻ học bài: minh chứng rõ nét

a. Bài thơ bắt nguồn từ hiện thực chiến tranh

Viết năm 1970, khi kháng chiến chống Mỹ khốc liệt.

Hiện thực: tiếng bom, ụ đất, hố bom, trung liên, pháo đài… → nền cảnh ác liệt.

Chính đời sống chiến tranh là chất liệu để nhà thơ tạo nên thi phẩm.

b. Cảm xúc yêu thương – niềm tin – tự hào của thi sĩ được “gói” trong bài thơ

Yêu thương và rung động trước đời sống bình dị

Hình ảnh quê: thóc phơi vàng sân, tiếng gà, tiếng chim, ngọn tre, mầm măng…

Tiếng trẻ học bài hiện lên tươi mới, trong trẻo → vẻ đẹp của cuộc sống thường ngày.

Niềm tin mạnh mẽ vào tương lai

Tiếng trẻ học bài là âm thanh “mầm măng”, “bình minh đậu trên trang sách”.

Sức sống của thế hệ trẻ vượt lên bom đạn – biểu tượng của tương lai đất nước.

Tình yêu nước và khát vọng hòa bình

Tiếng trẻ “gọi mặt trời lên”, như tiếp sức cho cuộc kháng chiến.

Giữa bom đạn, âm thanh trẻ thơ trở thành “kì diệu” – minh chứng cho bản lĩnh dân tộc.

→ Cả bài thơ là “những yêu thương” được nhà thơ gói lại: yêu quê, yêu trẻ, yêu sự sống, yêu hòa bình.

3. Mối quan hệ giữa cảm xúc và hiện thực trong bài thơ

a. Hiện thực làm nền cho cảm xúc thăng hoa

Không có chiến tranh, không có tiếng trẻ học bài trong bối cảnh hiểm nguy → không có cảm hứng thơ.

Hiện thực là “lá thơ”, là mảnh đất để cảm xúc bùng nở.

b. Cảm xúc giúp hiện thực trở nên đẹp – sâu – giàu ý nghĩa

Dưới cái nhìn của thi sĩ:

hố bom → “ngơ ngác lắng thinh”

khẩu trung liên → “cởi áo bạt lắng nghe”
→ Chiến tranh khốc liệt được “làm mềm”, nhuốm màu lãng mạn, hy vọng.

c. Thơ vừa phản ánh, vừa vượt lên hiện thực

Thực tế bom đạn là khắc nghiệt; thơ không né tránh nhưng chọn cách đề cao sự sống.

Thơ biến tiếng trẻ thành biểu tượng của tương lai, của khát vọng chiến thắng.

→ Điều này thể hiện đúng tinh thần Chế Lan Viên: thơ sinh ra từ đời sống nhưng hướng tới cái đẹp, cái nhân văn.

4. Giá trị tư tưởng – nghệ thuật của bài thơ

Thể thơ tự do linh hoạt → phù hợp nhịp cảm xúc.

Hình ảnh thơ mộc mạc mà giàu liên tưởng: mầm măng, hạt sương, bình minh…

Biện pháp so sánh, nhân hóa tạo chiều sâu nghệ thuật.

Giọng điệu tha thiết, ấm áp, giàu chất tự sự và niềm tin.

→ Vương Trọng đã chuyển hóa chất liệu đời sống khốc liệt thành thơ đầy sức sống và nhân văn.

III. KẾT BÀI

Khẳng định: Quan niệm của Chế Lan Viên về thơ hoàn toàn đúng: thơ bắt nguồn từ cảm xúc chân thành và hiện thực đời sống.

Tiếng trẻ học bài là minh chứng tiêu biểu: từ tiếng trẻ học bài bình dị, nhà thơ gói vào đó yêu thương, niềm tin, ước vọng về cuộc sống và tương lai.

Thơ ca vì thế vừa là tiếng lòng, vừa là tấm gương soi đời sống; giúp con người mạnh mẽ, nhân văn và giàu hi vọng hơn.

Bài văn mẫu tham khảo

Trong âm nhạc, có giai thoại rằng, trước sự tan vỡ của một mối tình tuyệt vọng, nhạc sĩ thiên tài Beethoven đã sáng tác ra bản “Sonata Ánh trăng” với dòng cảm xúc dồn dập. Trong hội họa, tác phẩm “Tiếng thét” được phát khởi và hoàn thiện từ những lo âu vô biên của Edvard Munch. Đối với văn học thì sao, khi nào một nhà thơ cần viết? Với Tố Hữu, “mỗi khi có gì chất chứa trong lòng, không nói ra, không chịu được thì lại cần thấy làm thơ.” Nhà thơ cần viết khi trong lòng họ chất chứa nỗi niềm không sao giấu nổi, cảm xúc chảy tràn, ứ căng, không nói ra không chịu được. Cũng như các loại hình nghệ thuật khác, thơ ca nói riêng – văn chương nói chung xuất phát từ tình cảm, cảm xúc. Phải chăng vì thế mà Chế Lan Viên trong bài Như cốm mùa thu cũng khẳng định:
“Những yêu thương của lòng tôi, tôi gói
Trong lá thơ vừa hái ở đời lên.”
Thơ ca là một hình thức sáng tác văn học nhằm phản ánh hiện thực và bộc lộ tình cảm của người viết bằng ngôn từ đầy nghệ thuật, hàm súc, cô đọng, giàu nhạc điệu. Viết thơ, vì thế không thể khô cứng. Những yêu thương của lòng tôi là thế giới tình cảm, cảm xúc chân thành, thiết tha, mãnh liệt trong tâm hồn người viết. Đó là sự đồng cảm, chia sẻ, ngợi ca, trân trọng, cả những băn khoăn, trăn trở, cùng sự rung động mãnh liệt trước con người và cuộc đời. Nhà thơ không viết một cách đơn thuần, mà “gói”, tức gửi gắm tình cảm, cảm xúc của mình dưới một hình thức đầy nghệ thuật độc đáo, trong sự gói ghém, cô đọng, hàm súc và sự tinh luyện, giàu sức gợi của ngôn ngữ thơ. Hình ảnh những lá thơ vừa hái ở đời lên, ý chỉ những vần thơ không thoát thai từ hư vô mà từ sự quan sát, chiêm nghiệm, trải nghiệm cuộc sống của người viết. Thơ ca bắt nguồn từ hiện thực đời sống, không có hiện thực thì không có thơ. Như vậy, nhận định của Chế Lan Viên đã khẳng định đặc trưng cơ bản của thơ ca: Thơ ca bắt nguồn từ những rung động mãnh liệt trong trái tim nghệ sĩ trước nhân gian. Những tình cảm ấy được hun đúc, cháy đỏ từ sự trải nghiệm đời sống, sự quan sát hiện thực của thi nhân. Nói cách khác, thơ ca, một mặt vừa là tiếng nói của tình cảm chủ quan, lại vừa tái hiện thế giới, phản ánh hiện thực khách quan qua lăng kính của người nghệ sĩ.
Andre Chenien quan niệm: “Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ. Trái tim mới làm nên thi sĩ”. Đặc trưng của thơ là tính trữ tình, đó là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc, là âm vang của tâm hồn. Chính tình cảm nồng cháy, dâng trào, chín đỏ là động lực thôi thúc nhà thơ cầm bút, là tiền đề cho sự ra đời của thơ ca. Không phải tự nhiên mà Hoài Thanh đã lí giải sự ra đời của thơ ca bằng nỗi niềm xúc động của thi sĩ Ấn Độ trước con chim thoi thóp rồi từ giã cõi đời. Khi không thể giãi bày nỗi niềm riêng tư của mình bên ngoài đời sống, thơ chính nơi để người cầm bút giải tỏa, bộc lộ những trăn trở, suy tư, thể hiện những khát vọng cao cả. Thơ chính là khoảng không gian mà nghệ sĩ được trải lòng, thỏa mãn những cảm xúc, tự do đi đến tận cùng với những giằng xé, băn khoăn chưa được giải tỏa. Chưa kể, tình cảm nồng đượm, chân thật mới là con đường để chạm tới trái tim người đọc. Nếu không có tình cảm, cảm xúc, thơ chỉ là những chữ cứng đơ, “thấp khớp” (chữ dùng của Nguyễn Tuân), là xiếc chữ vô hồn, vô cảm. Cảm xúc trong thơ là điều kiện tiên quyết, không thể thiếu. Không có tình cảm, không có nhà thơ.
Nhưng điều gì làm lòng thi sĩ xao động, điều gì khiến cho anh “xúc động hồn thơ”? Phải có một tác nhân, một cú hích, một điểm tựa để nhà thơ thăng hoa trong ngòi bút! Đó chính là hiện thực cuộc sống. Thơ ca và hiện thực có mối quan hệ gắn bó khăng khít, tác động qua lại với nhau. Hiện thực chính là nguyên nhân, là điểm xuất phát của thơ ca. Hiện thực là cái có trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Con người, đặc biệt là người nghệ sĩ, sống trong hiện thực, quan sát hiện thực, thể nghiệm và suy tư trước hiện thực. Từ đó, trong trái tim người viết chất chứa nhiều cảm xúc dồi dào, mãnh liệt và đến một lúc mà nó căng đầy vì tình cảm, nhà thơ thấy cần phải viết văn, làm thơ để giải tỏa cảm xúc, thỏa trí nghĩ của mình. Thơ ca từ hiện thực cuộc sống mà nảy sinh là vì thế. Không có hiện thực thì không có thơ ca. Cuộc đời là điểm khởi phát của văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Và sau cùng, chính thơ ca sẽ quay trở lại tác động vào hiện thực, cải tạo hiện thực, giúp cho xã hội tốt đẹp hơn, văn minh hơn.
Vương Trọng, nhà thơ sinh năm 1943 tài năng của xứ Nghệ đã gửi lòng mình qua nhiều tập thơ về đề tài chiến tranh, tình yêu quê hương, đất nước, gia đình. Bài thơ “Tiếng trẻ học bài” là sự kết tinh những yêu thương, những rung cảm sâu sắc của thi sĩ trước hiện thực cuộc sống chiến tranh gian khổ nhưng vẫn tràn đầy niềm tin và khát vọng hòa bình. Bài thơ càng có ý nghĩa đặc biệt khi ra đời vào năm 1970, trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày càng cam go, khốc liệt. Thi phẩm đã trở thành một bài ca của hy vọng, một bài ca chiến đấu, cổ vũ tinh thần dân tộc, bộc lộ niềm tin tươi sáng vào tương lai của đất nước. Cảm hứng của nhà thơ được khơi nguồn từ một âm thanh bình dị mà giàu sức sống: tiếng trẻ học bài trong không gian làng quê ấm áp:
“Trẻ hơn tiếng gà tập gáy
Khi mùa hè về thóc vàng sân phơi
Sớm hơn tiếng chim chèo bẻo
Vắt vẻo ngọn tre mỗi sáng gọi người.
Tiếng trẻ học bài
Như một mầm măng
Xuyên vào sáng sớm.”
Không cầu kì, thơ đã khởi phát một cách rất tự nhiên như thế. Không gian làng quê được tái hiện với hình ảnh “mùa về thóc vàng sân phơi”, ngọn tre, mầm măng,… với âm thanh tiếng gà tập gáy, tiếng chim chèo bẻo. Những chất liệu hiện thực đã được nhà thơ gói ghém rất tinh tế, mộc mạc, giàu sức gợi tả, gợi cảm. Làng quê dưới góc nhìn của Vương Trọng không xa lạ mà vô cùng giản dị, thân thuộc, ấm áp, được khéo léo khắc họa bằng chuỗi hình ảnh, âm thanh gần gũi mà giàu sức sống. Nổi bật giữa không gian ấy là âm thanh tiếng trẻ học bài. Vương Trọng đã thành công sử dụng biện pháp so sánh, từ so sánh hơn kém “Trẻ hơn tiếng gà tập gáy”, “Sớm hơn tiếng chim chèo bẻo” đến phép so sánh ngang bằng: “Như một mầm măng/Xuyên vào sáng sớm” để làm nổi bật sự khác biệt của âm thanh đặc biệt này. Đó là thứ âm thanh tươi mới, tinh khôi, trong trẻo, phơi phới niềm tin, tràn đầy sức sống. Âm thanh kì diệu ấy thay tiếng gà buổi sáng, thay tiếng chim chèo bẻo, trở thành điểm nhấn, dấu hiệu của ban mai, mở ra một ngày mới, đánh thức mọi người trong chốn thôn quê. Đặc biệt, tiếng trẻ học bài không chỉ đơn thuần là một âm thanh sinh hoạt, mà đã được nhà thơ nâng lên thành biểu tượng của sự sống, của tri thức, của tương lai, biểu tượng cho một thế hệ đang lớn lên giữa bom đạn với tinh thần học tập bền bỉ và khát vọng hòa bình mãnh liệt. Trong âm vang ấy, ta cảm nhận được tình yêu thương, sự trân trọng và niềm tự hào thầm lặng của nhà thơ đối với vẻ đẹp bình dị của quê hương. Đồng thời, tiếng đọc vần của đám trẻ cũng chính là lời nhắn nhủ đầy tin tưởng vào tương lai – một tương lai tươi sáng và thanh bình mà thế hệ trẻ đang gieo mầm bằng chính những trang sách và ước mơ của mình.
Những áng thơ trong thi phẩm đã nói hộ lòng Vương Trọng trong một giai đoạn đặc biệt khắc nghiệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thể hiện sự rung động của nhà thơ trước vẻ đẹp cuộc sống và niềm tin vào tương lai tươi sáng:
“Ở đây gần chiến trường
Không gian rung nhiều tiếng động
Vẫn có phút giây yên lặng
Làm cho rễ làm củ, cho nụ làm hoa
Bình minh đậu về trên trang sách
Mang tiếng trẻ học bài vang xa
Từ những ngôi nhà ba bề ụ đất
Thức vườn rau xanh tỉnh giấc
Hạt sương căng tròn, lung linh
Hố bom ngơ ngác lặng thinh.
Không hiểu nổi âm thanh kỳ diệu.”
Bằng sự thể nghiệm hiện thực, tác giả thấu hiểu sâu sắc sự khốc liệt của chiến tranh. Cuộc chiến hiện lên với tất cả sự tàn bạo, với sự cuồng nộ và tàn nhẫn không thể dung thứ. Đó là thứ “Không gian rung nhiều tiếng động” với “hố bom”, “khẩu trung liên trên đê”, “khẩu pháo ngoài trận địa”, pha trộn nhiều tạp âm của đạn nổ, bom rơi, của bạo lực, chết chóc. Hiện thực ác liệt của cuộc chiến đã được tái hiện với không khí căng thẳng, dữ dội, đầy rẫy hiểm nguy, gian khó. Thế nhưng, nếu chỉ mô phỏng chiến tranh, tác phẩm có lẽ sẽ không lay động độc giả nhiều đến thế. Trái ngược với âm thanh chói tai, gầm rú, hỗn loạn, đầy sát khí của cuộc chiến là “phút giây yên lặng” thanh bình của cuộc sống, với “âm thanh kỳ diệu” của tiếng trẻ học bài. Đó chính là vũ khí đặc biệt lấn át tất cả cái phi nhân tính, xóa bỏ mọi tạp âm của hủy diệt, cảm hóa cái ác, chiến thắng cái ác. Tiếng trẻ học bài, một cách kì diệu, dưới lăng kính của nhà thơ, đã đủ sức làm cho hố bom vốn ầm ĩ, chói tai, bạo lực bỗng “ngơ ngác lặng thinh” như bất ngờ, như bị lay động, như được biến hóa. Thứ âm thanh kì diệu ấy còn đủ sức khiến cho khẩu súng tiểu liên, khẩu pháo – một biểu tượng của chiến tranh, phải lép vế, “cởi áo bạt lắng nghe/tiếng trẻ học bài.” Có lẽ hiện thực cuộc chiến không hẳn như vậy. Có thể thực tế, tiếng bom át tiếng nói, tiếng đạn át tiếng ca. Nhưng dưới góc nhìn của nhà thơ, qua một tâm hồn chất chứa niềm tin và hy vọng, tiếng trẻ có đủ cường lực, đủ sức dự phóng để chiến thắng mọi cái phi nhân, lấn át hiểm nguy. Có thể nói, tiếng trẻ học bài không chỉ đánh thức vạn vật, mà còn đánh thức niềm tin trong lòng người. Nó là thứ âm thanh kì diệu, âm thanh phép màu vang lên giữa khó khăn, tạo động lực cho con người chiến thắng mọi gian khổ, có sức lan tỏa, đồng cảm mãnh liệt. Tiếng trẻ “gọi mặt trời lên”, đánh thức lòng yêu nước của bao thế hệ, xây dựng niềm tin, niềm hy vọng, tiếp sức vào cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại của dân tộc.
Trong chiến tranh, thực tế ác liệt, nhiều khi nỗi buồn nhiều hơn niềm vui, ranh giới giữa sự sống và cái chết mong manh vô cùng. Đó là lí do vì sao mà Bảo Ninh, trong thiên tiểu thuyết nổi tiếng của mình, đã đau đớn kêu lên rằng: “Chao ôi! Chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người!”. Nhưng trong bài thơ của Vương Trọng, trái ngược với hình ảnh vũ khí đầy bạo lực và chết chóc là hình ảnh cuộc sống nảy nở, sinh sôi, sống động nhờ tiếng trẻ vang xa: “rễ làm củ, nụ làm hoa”, “bình minh về đậu trên trang sách”, “ngôi nhà ba bề ụ đất”, “thức vườn rau xanh tỉnh giấc”, “hạt sương căng tròn, lung linh”,… Sự tương phản giữa cái chết và sự sống, giữa sự hủy diệt và sinh sôi nảy nở, giữa hiện thực tàn khốc của chiến tranh và hiện thực đầy chất thơ của cuộc sống thường nhật yên bình đã làm nổi bật sức sống mãnh liệt, kiên cường của con người Việt Nam. Trong khói lửa và đạn bom, những con người ấy chẳng những không nhụt chí nản lòng mà còn nuôi dưỡng tri thức, gieo mầm tương lai, khẳng định bản lĩnh cứng cỏi không chịu khuất phục. Đó là biểu hiện cao đẹp của một dân tộc biết vươn lên từ gian khổ, biết khơi sáng tương lai ngay cả trong đêm trường tranh đấu gian khổ. Trong cái nhìn đầy rung cảm của tác giả, chính tiếng học bài của đám trẻ thôn quê ngân vang giữa tiếng pháo nổ là minh chứng sống động nhất cho lòng yêu nước, cho khát vọng hòa bình và cho niềm tin không bao giờ tắt vào tương lai. Cùng lấy đề tài chiến tranh, cùng chiêm nghiệm hiện thực, nhưng bằng tiếng lòng của mình, dưới cảm hứng lãng mạn, thi nhân đã tạo nên những vần thơ đầy hy vọng, có có khả năng cổ vũ, khơi dậy niềm tin chiến thắng.
Bài thơ “Tiếng trẻ học bài” của Vương Trọng đã khắc họa thành công những đặc điểm nổi bật cùng sức mạnh kì diệu của tiếng trẻ học bài như một biểu tượng thiêng liêng của sự sống, khát vọng và niềm tin mãnh liệt vào tương lai của dân tộc. Qua đó, nhà thơ thể hiện tình yêu nước và niềm tin đặc biệt vào sự chiến thắng, đi lên của đất nước. Để chuyển tải nội dung sâu sắc, bài thơ sử dụng thành công thể thơ tự do. Hình ảnh, ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, giàu sức gợi với những biện pháp tu từ đặc sắc: so sánh, nhân hóa, nghệ thuật đối,… Cùng với đó, giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng, chất chứa niềm tự hào, niềm tin phơi phới của tác giả hòa với nhịp thơ linh hoạt, uyển chuyển, phù hợp với mạch cảm xúc, có lúc nhanh, gấp ở đoạn miêu tả chiến tranh, có lúc chậm rãi, ngân nga ở những đoạn nói về tiếng trẻ học bài và cảnh vật thôn quê. Tất cả đã làm nên hiện thực dù vẫn xù xì, vẫn mang mùi khói bom nhưng cũng không kém phần đẹp đẽ.
Như vậy, trong thơ ca, hiện thực được soi chiếu qua lăng kính chất chứa cảm xúc chủ quan của nghệ sĩ. Đọc thơ, ta kiếm tìm một tâm hồn. Vương Trọng có những hình ảnh thơ rất thực, nhất là hình ảnh nói về tính chất của chiến tranh, lại cũng có những câu thơ rất đẹp, rất lãng mạn khi miêu tả âm thanh tiếng trẻ học bài và hình ảnh thôn quê. Chúng đều đã nhuốm màu tâm trạng của thi sĩ, ánh chiếu sự căm phẫn trước chiến tranh và khao khát, mong mỏi hòa bình, cùng niềm hy vọng, sự tin tưởng vào tương lai tất thắng của đất nước. Nếu Vương Trọng bi quan, chán nản, làm sao ta có những bình minh đậu trên trang sách, có hạt sương căng tròn lung linh? Làm sao có những câu thơ rất đẹp, rất sống động như thế?! Nói vậy để thấy, tâm trạng của nhà thơ đều được gửi gắm trong thơ. Hiện thực vào trong thơ không hoàn toàn là hiện thực như nó vốn có mà là hiện thực của cảm xúc, hiện thực qua lăng kính chủ quan của nghệ sĩ.
Thơ xuất phát từ cuộc đời, do vậy, người làm thơ cũng cần tích lũy vốn sống, trải nghiệm nhiều để khám phá những vẻ đẹp tiềm tàng trong từng góc, từng trang đời. Nhưng thơ cũng là tình cảm. Vì thế, có vốn sống chưa đủ, nhà thơ còn phải nung nấu những tình cảm, cảm xúc chân thành, mãnh liệt. Muốn vậy, bên cạnh tư chất bẩm sinh, nhà thơ cần trau dồi năng lực quan sát, cảm thụ, tâm hồn biết rung lên trước những hiện tượng của đời sống. Với người đọc, bài thơ cũng nhắn nhủ rằng: tiếp nhận thơ ca không chỉ là việc đọc chữ, hiểu nghĩa, mà còn là hành trình mở lòng để thấu cảm. Muốn hiểu được thơ, người tiếp nhận cần hòa vào thế giới tâm hồn của người viết, lắng nghe nhịp đập của trái tim họ, thấm nhuần những thông điệp, giá trị nhân văn được gửi gắm phía sau mỗi con chữ. Đồng thời, chính người đọc cũng cần không ngừng mở rộng vốn tri thức để đủ khả năng thấu cảm với người cầm bút.
Khi nói về một biểu tượng về nghề viết, Nguyễn Ngọc Tư đã chọn biểu tượng giọt nước mắt. Không phải là cây đàn Lyre, không phải là cây bút thần, mà lại là giọt nước mắt cảm thông, biết rung động chân thành. Có lẽ, con người ta tìm đến văn học không ở cách dụng chữ hoa mỹ mà cốt ở sự đồng cảm, ở sự tương giao giữa tâm hồn theo cơ chế “dĩ tâm truyền tâm”. Chỉ có tư tưởng đẹp, nội dung sâu sắc mới giúp câu thơ sống mãi với đất trời. Giọt nước mắt, hay chính là tình cảm, cảm xúc thành thực mới đủ sức lay động hồn người và đưa văn học đi đến mọi vùng trời, vượt qua sự băng hoại của thời gian và cái chết.
thichvanhoc
Yêu thích

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bói Bài Tarot
Mở trang