Đề bài: Em hãy viết đoạn văn Nghị luận phân tích đánh giá nhân vật Tường trong đoạn Trích Đêm làng Trọng Nhân
(Bối cảnh đoạn trích: Tường đi bộ đội hơn sáu năm không có tin tức gì. Hòa bình, anh may mắn còn sống trở về làng với gương mặt “đã chết” khó mà nhận ra. Tường về đến cây đa đầu làng Trọng Nhân thì trời đã mãn chiều. Anh tạt vào quán nước dưới gốc đa và hỏi thăm về tình hình gia đình mình sau bao năm xa cách).
Anh bỏ mũ cối xuống chõng tre hàng nước và tháo kính râm ra khỏi mắt. Cô bé ngước nhìn lên và giật mình. Tường thấy hai mắt cô bé mở to kinh ngạc. Bát nước chè xanh trên tay cô bé sóng sánh, tướt trên nắp hộp kẹo bột.
– Chú mời nước ạ!
Cô bé chớp chớp mắt. Cô đặt bát nước trước mặt Tường rồi rót thêm.
– Bà ơi có khách. Bà ra trông hộ cháu.
Cô gái đứng dậy cầm quyển sách vào trong rất nhanh. Tường chạnh lòng, tủi thân. Anh đưa tay sờ lên mặt: thô, ráp, xù xì. Đó là cảm giác của tay anh nhận được trên khuôn mặt đã chết.
– Chú bộ đội quê ở đâu ta? – Bà già còng lưng chậm rãi từ trong đi ra. Tường nhận ra bà Còm. Bà già nhiều và yếu, lưng còng hơn ngày anh ở nhà.
– Dạ! Cháu quê tận Nghệ An. Bà ở luôn đây à?
– Ấy! Trước bà ở trong làng, sáng đem ra bán, tối lại dọn về. Từ ngày thằng Cu Theo có giấy báo tử, bà yếu nhiều không dọn đi, dọn về được, nghỉ luôn ở đây. Đứa cháu lúc nãy đấy, tối ra học rồi ngủ chung với bà.
Lòng Tường chợt se lại. Thế là thằng Cu Theo cái thằng cùng đơm lờ để đó với anh thuở nhỏ đã hy sinh. Anh còn may hơn nó là ra khỏi chiến tranh, mang được tấm thân thương tật về nhà.
– Giời sắp tối rồi. Nếu còn xa cứ nghỉ lại quán của bà, sáng mai đi tiếp. Khổ thân các chú bộ đội vất vả.
– Cảm ơn bà! Cháu là bạn anh Tường làng Trọng Nhân đây bà ạ!
– Giời đất ơi! Quý hóa quá! Bom đạn đã ngừng năm sáu năm rồi. Làng này chết sáu, bảy chục. Đứa nào còn sống về cả rồi. Chỉ còn mỗi thằng Tường chẳng biết sống chết ra sao chưa thấy về mà cũng không có giấy báo tử. Chuyến này chú về là ông bà Tân mừng lắm.
– Dạo ni ông bà Tân có khỏe không bà. O Thương vợ anh Tường bây giờ ra răng ạ…? Anh hỏi liên tục.
– Ôi dào ơi! Già cả rồi! ì oặt luôn. Chú này, cái đám cô Thương ấy mà. Có khối đám đến dập dìu đấy. Ông bà Tân chỉ ưng gả con dâu cho anh giáo Mười thôi.
Lòng Tường thắt lại. Anh hoang mang. Tim anh đập loạn xạ. Phải về thôi! Về ngay nhà. Thương ơi! Tất cả hãy dừng lại. Anh đang về với em đây.
Tối chạng vạng.
Tường bước vội trên con đường lát gạch về làng Trọng Nhân. Hơn sáu năm đi xa, chắc bây giờ mẹ anh già lắm. Có già như bà Còm không. Anh đổi khác, mẹ anh có nhận ra không. Còn bố anh có còn đi làm thợ thùng đào, thùng đấu nữa không. Cái nghề ấy khổ lắm bố ơi. Và Thương nữa! Tường nhớ lại cây đa hai trăm tuổi đã nhiều lần chứng kiến tình yêu của anh. Ôi! Những giọt trăng lọt qua kẽ lá rơi xuống tóc, vai Thương. Mùi hương bưởi thoảng bay ra từ suối tóc mây. […]
Tường giật mình. Mải nghĩ, anh đã đi qua ngõ nhà mình mấy bước.[…]
Tường đứng trước ngõ. Nhà mình đây rồi. Tường reo to trong lòng. Ôi! Bao năm anh lặn lội khắp các nẻo chiến trường. Bao năm Tường sống trong nhớ nhung, khát khao, chờ đợi. Hình ảnh mẹ, vợ và cha lúc nào cũng đau đáu, khắc khoải trong tim. Giờ thì anh đã về đây. Về nơi đã sinh ra anh, nơi anh lớn lên và ra trận.
[…] Lòng anh rạo rực. Những bước chân rất nhẹ, lâng lâng. Gặp mẹ như thế nào nhỉ. Anh sẽ chạy nhanh đến ôm chầm lấy mẹ. Không! Anh sẽ hiu hiu nhắm mắt, hai tay đưa về trước khi dò dẫm trong sân. Cũng không! Nhìn thấy, mẹ sẽ ngã mất. […] Còn bố nữa. Anh sẽ đứng nghiêm: “Thưa bác lực điền. Con đang đeo hai huân chương chiến công trở về. Tửu lượng của bác dạo này thế nào ạ?”. Bố anh cười rạng rỡ: “Cha anh chứ! Mẹ và vợ anh hết nước mắt”. Còn Thương nữa! Anh sẽ đeo ba lô đứng chờ bên cửa buồng. […] “Không! Trái tim của anh nhưng còn gương mặt…”
– Chị Thương! Có tắm thì ào đi còn ăn cơm. Bà ấy không về đâu.
Tường bừng tỉnh. Đúng là tiếng bố rồi.
– Thầy cứ uống rượu trước đi. U cũng bảo con vài hôm u mới về.
Tiếng nói của Thương vẫn như xưa, dịu dàng và đằm thắm.
– Bố rất quý cái nết anh giáo Mười. Anh giáo với con ở đây bố mẹ yên tâm lúc tuổi già. Anh giáo cũng giản dị, đã đi lính rồi nên dễ thông cảm.
Tai Tường ù đi. Chiến tranh. Xa cách. Mất mát. Chia ly và chiến thắng. Anh rùng mình nhớ lại: ánh mắt trố ra kinh ngạc của cô gái, lời bà Còm, tiếng kêu kinh ngạc của thằng bé, cái mặt ông ác, tiếng nói của cha. Lòng anh quặn lại. Ngôi nhà bỗng trở nên xa lạ…
Tường quay đầu, khoác ba lô đi ra đường. Tường vấp ngã. Anh luống cuống ngồi dậy. Nước mắt tự nhiên ứa ra. Anh cứ đi, bước thấp, bước cao, hẫng hụt…
(Trích Đêm làng Trọng Nhân, Sương Nguyệt Minh, NXB Quân đội nhân dân, 1998)
Dàn ý Nghị luận phân tích đánh giá nhân vật Tường trong đoạn Trích Đêm làng Trọng Nhân
Giới thiệu vấn đề nghị luận
Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh người lính trở về sau chiến tranh luôn để lại nhiều xúc cảm sâu lắng trong lòng người đọc. Họ không chỉ mang trên mình thương tích, mà còn gánh chịu những tổn thương không thể đo đếm bằng mắt thường. Nhân vật Tường là một điển hình như thế. Qua nhân vật này, tác giả không chỉ thể hiện nỗi đau âm thầm của người lính sau chiến tranh mà còn khơi gợi nơi người đọc sự thấu cảm, trân trọng và biết ơn sâu sắc.
Phân tích nhân vật Tường
Số phận bi kịch:
Tường trở về làng sau hơn sáu năm tham gia chiến đấu. Không một dòng tin tức, không một lời báo trước, sự xuất hiện của anh như một nốt nhạc trầm đầy ám ảnh. Anh còn sống – đó là điều may mắn. Nhưng gương mặt của anh lại “đã chết”, không còn nguyên vẹn, khiến người ta khó mà nhận ra. Sự tàn khốc của chiến tranh không chỉ cướp đi tuổi xuân, mà còn để lại những vết sẹo không bao giờ lành, cả về thể xác lẫn tâm hồn.
Tình cảm yêu thương sâu sắc:
Tường là người luôn sống trong nỗi nhớ, trong khao khát được trở về với gia đình. Trái tim anh chưa bao giờ thôi rung động khi nghĩ đến mẹ, đến vợ, đến mái nhà thân thuộc. Khi bước chân trở về quê hương, từng bước chân của Tường không chỉ là hành trình đi lại, mà là hành trình tìm về cội nguồn yêu thương. Những dòng nội tâm như “Lòng Tường thắt lại… Anh đang về với em đây…” cho thấy rõ niềm hạnh phúc vỡ òa lẫn nỗi xúc động nghẹn ngào của người lính vừa thoát khỏi ranh giới sống – chết.
Sự vị tha và hi sinh lặng lẽ:
Tường trở về nhưng không nhận lại được vòng tay chào đón như anh mong đợi. Gương mặt biến dạng khiến anh trở thành người xa lạ với chính gia đình mình. Nhưng thay vì trách móc hay đòi hỏi, Tường lặng lẽ quay đi. Khoảnh khắc “Tường quay đầu, khoác ba lô đi ra đường” là hình ảnh của một con người vị tha đến tận cùng. Anh chấp nhận nỗi đau, chấp nhận sự tổn thương để gìn giữ hạnh phúc cho những người mình yêu thương. Đó là sự lặng lẽ cao cả, không lên tiếng nhưng chạm đến đáy lòng người đọc.
Đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nhân vật Tường được khắc họa qua những chi tiết rất đắt giá: hành động, lời nói, miêu tả nội tâm và đặc biệt là tình huống truyện. Tác giả đã tinh tế đặt nhân vật vào thời khắc nhạy cảm – trở về sau chiến tranh – để từ đó bộc lộ trọn vẹn nhất tâm hồn, tính cách và phẩm chất. Không cần lời bình luận, những cử chỉ, ánh mắt, nỗi im lặng của Tường đã nói lên tất cả. Đây là một thành công lớn về nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.
Thông điệp được gửi gắm
Qua nhân vật Tường, tác phẩm mang đến nhiều thông điệp sâu sắc và giàu tính nhân văn.
– Người đọc được nhắc nhở về sự biết ơn đối với những người lính – những người đã hy sinh cả tuổi trẻ, sức khỏe, và hạnh phúc cá nhân vì lý tưởng lớn lao của dân tộc.
– Cũng từ đó, ta học cách thấu hiểu và đồng cảm với những tổn thương âm thầm mà họ phải mang theo suốt đời, ngay cả khi tiếng súng đã ngừng.
– Và hơn hết, giá trị của hòa bình được khẳng định. Một nền hòa bình để không còn ai phải quay về trong im lặng, để không còn ai phải lặng lẽ rời đi như Tường – người lính trở về không ai nhận ra, nhưng mãi mãi không thể bị quên lãng.
Sự cao thượng và vị tha của Tường trong khoảnh khắc lặng lẽ quay đi khiến người đọc không khỏi nghẹn lòng. Hơn cả một nhân vật, Tường là biểu tượng cho những số phận thầm lặng đã góp phần làm nên hòa bình hôm nay. Tác phẩm như một nén hương lòng tưởng nhớ và tri ân những người lính – những người đã mất mát quá nhiều để Tổ quốc được yên bình. Và vì thế, ta càng trân quý hơn từng ngày tháng được sống trong hòa bình, được thấy những người thân yêu và được trở về – mà không cần giấu gương mặt của mình.
Bài văn mẫu Nghị luận phân tích đánh giá nhân vật Tường trong đoạn Trích Đêm làng Trọng Nhân
Bài văn mẫu 1
Trong những trang văn viết về người lính sau chiến tranh, nhân vật Tường hiện lên như một lát cắt đầy ám ảnh và xúc động. Anh trở về quê nhà sau hơn sáu năm đi bộ đội, mang theo vết thương không thể lành trên khuôn mặt và cả trong tâm hồn. Cuộc sống tưởng như trở lại bình yên, nhưng với Tường, sự trở về ấy lại là một hành trình cô đơn, chất chứa dằn vặt và thấu hiểu.
Không giống những người lính chiến thắng trở về trong niềm vui đoàn tụ, Tường về làng nhưng lại không thể bước vào ngôi nhà của mình. Gương mặt biến dạng vì chiến tranh khiến anh trở thành người xa lạ. Mẹ anh, vợ anh, những người thân yêu nhất – không ai nhận ra anh. Điều khiến người đọc nhói lòng chính là cách Tường lặng lẽ đối diện với sự thật ấy. Anh không oán trách, không giận dữ. Ngược lại, anh chọn rút lui, âm thầm khoác ba lô quay bước, để những người anh thương được sống yên bình.
Nhưng đâu đó, phía sau dáng người ấy là một tâm hồn sâu thẳm, đầy yêu thương. Trong suốt những năm tháng nơi chiến trường, Tường chưa bao giờ thôi khắc khoải nhớ về mái nhà, nơi có mẹ, có vợ, có tiếng gọi thân quen. Anh ấp ủ từng bước trở về như người đi tìm ánh sáng. Sự háo hức, rạo rực khi chạm chân về làng khiến những dòng miêu tả nội tâm trở nên chân thật, gần gũi đến đau lòng.
Tường không phải một người lính chiến thắng, nhưng anh là người đã chiến đấu để giữ gìn sự sống cho người khác, kể cả khi phải đánh đổi niềm hạnh phúc của chính mình. Qua nhân vật này, người đọc thấm thía hơn giá trị của hòa bình, của sự đoàn viên – điều tưởng chừng đơn giản nhưng đối với nhiều người lính, lại quá xa vời. Câu chuyện về Tường không chỉ gợi thương mà còn là lời nhắc nhở về sự biết ơn và trân trọng với những người đã lặng thầm hy sinh cho ngày hôm nay.
Bài văn mẫu 2
Tường – một người lính trở về từ chiến tranh – là hiện thân cho nỗi đau không thể gọi tên. Hơn sáu năm xa nhà, anh sống trong bom đạn, chiến đấu không chỉ vì Tổ quốc mà còn vì ước mong đoàn tụ với gia đình. Thế nhưng, điều chờ đợi Tường ở ngày trở về lại là sự cô độc đến nhói lòng.
Chiến tranh lấy đi khuôn mặt của anh, biến anh thành người xa lạ trong chính ngôi nhà của mình. Không một ai nhận ra anh, kể cả những người thân yêu nhất. Trớ trêu thay, sự sống sót của Tường lại là gánh nặng tâm lý nặng nề. Anh chọn quay đi, rút lui khỏi vòng tay mà anh hằng mơ tưởng suốt những năm dài, chỉ để gìn giữ sự bình yên cho người khác. Đó là sự hy sinh âm thầm, không cần ghi nhận, không cần ai ca ngợi, nhưng đủ khiến người đọc lặng người.
Tường không chỉ là nạn nhân của chiến tranh mà còn là người mang trái tim cao thượng. Tình cảm anh dành cho mẹ, cho người vợ nhỏ bé chưa một lần phai nhạt. Cách anh nôn nóng, hồi hộp khi chạm gần mái nhà, cách anh tưởng tượng khoảnh khắc được ôm chầm lấy mẹ… tất cả đều là những điều rất đỗi người, rất đỗi thật.
Tác giả đã đặt Tường vào một tình huống đầy trớ trêu để đẩy cảm xúc nhân vật đến tận cùng. Nhưng chính ở đó, bản chất đáng quý của anh được bộc lộ rõ ràng. Anh không hùng hồn kể chuyện chiến đấu, không cần ai vinh danh. Anh chỉ mang theo vết thương của mình và lặng lẽ bước đi – như thể chiến tranh chưa bao giờ rời khỏi anh.
Tường là nhân vật khiến người ta không thể quên. Và qua anh, ta học được cách thấu hiểu nỗi đau, trân trọng cuộc sống, gìn giữ những điều bình dị nhất – điều mà chỉ những người từng mất mát mới biết quý giá nhường nào.
Bài văn mẫu 3
Trong những tác phẩm viết về hậu chiến, nhân vật Tường để lại ấn tượng không bởi hành động phi thường, mà bởi chính sự lặng lẽ cao cả của anh. Một người lính trở về sau bao năm chiến đấu, tưởng như sẽ được đón nhận trong vòng tay gia đình, nhưng điều chờ đợi Tường lại là sự xa lạ. Gương mặt anh đã biến đổi, trở nên “chết”, không còn ai có thể nhận ra.
Chính trong hoàn cảnh ấy, vẻ đẹp nội tâm của Tường hiện lên rõ rệt. Anh không đổ lỗi, không oán giận. Anh hiểu sự im lặng và sợ hãi của người thân. Anh cảm nhận được sự khác biệt mình mang đến cho cuộc sống yên bình nơi quê nhà. Và rồi, anh chấp nhận lặng lẽ rời đi – một hành động không nói ra nhưng chứa đầy yêu thương, bao dung và hy sinh.
Điều khiến Tường khác biệt là ở sự sống nội tâm mạnh mẽ. Những năm tháng nơi chiến trường, điều giúp anh tồn tại không chỉ là bản lĩnh mà còn là tình yêu dành cho gia đình. Những dòng miêu tả tâm lý như “Tường reo to trong lòng”, “lòng anh rạo rực”… thể hiện sự sống động trong cảm xúc, một niềm tin mãnh liệt vào ngày trở về. Nhưng rồi, cũng chính anh là người chủ động khép lại niềm vui ấy, chỉ để người mình yêu không phải chịu đựng thêm một tổn thương nào nữa.
Qua nhân vật Tường, người đọc cảm nhận sâu sắc hơn những mất mát vô hình mà chiến tranh để lại. Đó không chỉ là thương tích trên thân thể, mà là những ám ảnh kéo dài suốt đời. Bằng việc xây dựng một nhân vật giàu cảm xúc và đặt vào tình huống đầy nghịch lý, tác giả đã khéo léo truyền tải thông điệp về sự đồng cảm, lòng biết ơn và giá trị của hòa bình.
Tường có thể là nhân vật trong một câu chuyện, nhưng anh cũng là đại diện cho rất nhiều người lính ngoài đời – những người mang thương tích trở về, và vẫn không ngừng yêu thương, vị tha, âm thầm gìn giữ cho cuộc sống phía sau mình được nguyên vẹn.