📘 Tải 100+ tài liệu nghị luận văn học, 100+ đề thi học sinh giỏi ... chỉ 1 Click

Nghị luận so sánh đánh giá hai đoạn trích truyện Dì Hảo và Mợ Du

Đề 3

DÌ HẢO

             (Lược tóm tắt: Dì Hảo là con nuôi của bà tôi. Bố đẻ của dì Hảo chết đã lâu. Mẹ đẻ dì là bà xã Vận, người phụ nữ góa chồng, một người đàn bà bán bánh đúc xay, ngon có tiếng khắp làng Vũ Đại. Mặc dù công việc buôn bán thuận lợi nhưng vì phải nuôi thêm hai đứa con nheo nhóc cùng với đống nợ chồng chất khiến cuộc sống của bà ngày càng thêm chật vật. Bà quyết định để dì Hảo đi ở nuôi nhà người quen. Mới đầu về nhà mẹ nuôi dì Hảo khóc ghê lắm nhưng dần dần dì cũng quen dần với cuộc sống ở đây, và trở thành một người con gái rất ngoan đạo giống như chính mẹ nuôi của mình. Đến thì con gái dì đi lấy chồng, dành cho chồng bằng tất cả tình yêu thương của mình. Nhưng trớ trêu thay chồng của dì lại là một kẻ cờ bạc, rượu chè, vũ phu, không yêu dì, và có phần xa lánh, khinh bỏ dì. Rồi dì sinh được một đứa con, nhưng không may đứa con chết, rồi dì lại lâm bệnh, đau yếu, không đi làm được, người chồng lại càng khinh bỉ, ghét bỏ dì, đay nghiến dì Hảo.)

Dì Hảo chẳng nói năng gì. Dì nghiến chặt răng để cho khỏi khóc nhưng mà dì cứ khóc. Chao ôi! Dì Hảo khóc. Dì khóc nức nở, khóc nấc lên, khóc như người ta thổ. Dì thổ ra nước mắt. Nhưng đã vội phí nước mắt làm gì nhiều đến thế. Vì dì còn phải khóc hơn thế nhiều, khi hắn chán chửi, bỏ nhà mà đi, bỏ dì bơ vơ, đau ốm, để tìm cơm rượu. Trách làm gì hắn, cái con người bắt buộc phải tàn nhẫn ấy? Hắn phải ăn, phải uống, phải vui thú, đó là đời của hắn. Dì Hảo què liệt không còn những cái ấy để mà cho. Không, dì có trách chi con người tàn nhẫn ấy. Cũng như dì đã không trách bà tôi đã làm ngơ không cấp đỡ cho dì. Bà tôi có còn giàu như trước nữa đâu? Người đã già, đã ốm yếu, và khổ cực thay! Đã nghèo như lúc còn hăm hai. Cái cơ nghiệp người gây dựng thầy tôi buôn bán thua lỗ, chúng tôi học hành tổn phí nhiều, đã tan tác đi theo gió bốn phương. Người chỉ có thể đem đến cho dì Hảo mỗi ngày một xu quà, và rất nhiều nước mắt. Và rất nhiều lời than thở.

(Trích Dì Hảo – Tuyển tập truyện ngắn Đôi mắt, Nam Cao, NXB Văn học, 2017)

MỢ DU

Mợ Du! Mợ Du! Một người đàn bà mà hiện giờ tôi còn nhớ từng nét mặt, tiếng nói. Mợ có một gương mặt trắng mát, gò má hơi cao, mắt có quầng thâm và lúc nào cũng ướt át, lờ đờ. Tiếng nói của mợ nhẹ và ấm. Mợ đã là người bạn buôn bán thân nhất của mẹ tôi. Nhưng từ ngày mợ bỏ cậu Du, tôi ít thấy mẹ tôi chuyện trò với mợ, cho đến ngày nghe đâu mợ vào Vinh cùng với một người thợ may tây rồi đẻ con với người ấy.

Mợ Du bỏ chồng! Mợ Du phải bỏ chồng vì bị mẹ chồng và em chồng bắt được quả tang tình tự với anh thợ may trai trẻ, có duyên, làm cho nhà mợ! Tôi đã không hiểu tại sao mợ Du đã có con lớn lại bậy bạ như thế. Và, như những người lớn, tôi đã ghét và khinh mợ mỗi khi nghe nhắc đến mợ với cái tội không thể tha thứ ấy.

Nhưng sau một đêm kia, đối với mợ Du tôi bỗng đổi ra thành lòng thương và mến. Rồi từ đêm ấy trở đi, tôi căm tức vô cùng trước những kẻ bêu riếu mợ hay ra vẻ ghê tởm thằng Dũng con mợ.

Tấm ảnh chụp hai mẹ con kia rõ ràng là mợ Du và thằng Dũng. Người mẹ ấy đôi mắt vẫn sáng, và cái sống mũi dọc dừa, cái cằm thon trong gương mặt vẫn đầy tươi trẻ, tinh anh6. Còn thằng nhỏ thì bế nâng lên trước mặt người mẹ, một tay y bịt lấy rốn nó, mặt hơi cúi xuống với nó nhưng mắt vẫn ngước lên như trỏ cái sự vật đằng trước cặp mắt bỡ ngỡ của nó cho nó cười thêm. Dưới tấm ảnh mà tôi không thể nào lầm lẫn được ấy lại còn có thêm dòng chữ này:

– Kỷ niệm ngày con Dũng của mợ lên hai nhưng mới được tám tháng.

Và ở một góc có hai dòng chữ nhỏ như kim:

– Dũng ơi! Con của mẹ ơi! Biết đến bao giờ mẹ mới được gặp con?!

Mợ Du đã chết rồi?! Người mẹ khốn nạn kia bị người chồng sau tình phụ, hay vì y chết, mợ sa sút và cho mình đã phạm một trọng tội, mợ đành sống lén lút, để khỏi dây dính đến Dũng? Hay mợ đã tìm đến Dũng nhưng không được nhìn nhận? Hay Dũng chết rồi? Hay những giấy má, hình ảnh kia chỉ là của người đàn bà chết bắt được?!

Tôi đã nhiều lúc tự hỏi nhưng chỉ thấy thêm rằng chắc chắn mợ Du đã chết và những cảm tưởng về mợ chỉ càng thấm thía, tê tái trong tâm hồn tôi, thằng bé An xưa kia không còn những dòng nước mắt tràn trề để khóc nữa.

(Nguyên Hồng, Mợ Du)

Chú thích

* Nam Cao (1915-1951) tên thật là Trần Hữu Tri, là nhà văn lớn, một cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại, là nhà văn hiện thực nhân đạo xuất sắc của thế kỉ XX. Nam Cao đã đưa chủ nghĩa hiện thực lên một bước đột phá: chủ nghĩa hiện thực tâm lí. Ông nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 1996. Phong cách nghệ thuật của ông: Đề cao tư tưởng con người : Quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá “con người trong con người”. Đi sâu khám phá nội tâm nhân vật. Thường viết về những cái nhỏ nhặt nhưng lại mang ý nghĩa triết lý sâu sắc. Ông có phong cách triết lý trữ tình sắc lạnh. Ông để lại khối lượng tác phẩm lớn với nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, truyện ký như các tác phẩm: “Sống mòn”, “Lão Hạc”, “Chí Phèo”, “ Giăng sáng”, “Lão Hạc”, “Chí Phèo”, “Đôi mắt”, …

* Nguyên Hồng: Trong văn đàn Việt Nam, nhà văn Nguyên Hồng được đồng nghiệp và bạn đọc ưu ái gọi bằng một “danh hiệu”: Nhà văn của phụ nữ và trẻ em. Nhà văn Nguyên Hồng sinh năm 1918 mất năm 1982. Tên khai sinh của ông là Nguyễn Nguyên Hồng, quê ở thành phố Nam Định. Nguyên Hồng sống chủ yếu ở thành phố cảng Hải Phòng. Nguyên Hồng từng có một tuổi thơ bất hạnh. Hồi kí Những ngày thơ ấu được coi là những dòng hồi ức sinh động, chân thực đầy cay đắng về tuổi thơ không êm đềm của nhà văn. Ông viết nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, thơ. Các tác phẩm chính của Nguyên Hồng: Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938); Những ngày thơ ấu (hồi kí, 1938); Trời xanh (tập thơ, 1960); Cửa biển (bộ tiểu thuyết 4 tập: 1961, 1967, 1973, 1976); Núi rừng Yên Thế (bộ tiểu thuyết lịch sử nhiều tập chưa viết xong); Bước đường viết văn (hồi kí, 1970). Trong những tác phẩm của Nguyên Hồng, hình ảnh người phụ nữ và trẻ em trong xã hội cũ được nhà văn dành nhiều niềm yêu thương, đồng cảm. Với những đóng góp của Nguyên Hồng dành cho nền văn học dân tộc, ông được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996

———————-Hết——————–

Dàn ý

* Giới thiệu chung:

– Dẫn dắt và giới thiệu tên các tác phẩm, tác giả

– Nêu vấn đề nghị luận: Giá trị nội dung và nghệ thuật của hai đoạn trích trong “Mợ Du” của Nguyên Hồng và “Dì Hảo” của Nam Cao

Thân bài

* Giới thiệu chung:

+ Tác giả:

++ Giới thiệu về tác giả Nam Cao và tác giả Nguyên Hồng

 

+ Tác phẩm:

. Cả hai truyện ngắn “ Dì Hảo” và “Mợ Du” là những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài phụ nữ của hai nhà văn.

. Đặc biệt là hai đoạn trích trên đã thể hiện những nét đăc sắc về cả nội dung và nghệ thuật

* Phân tích

– Luận điểm 1: Cảm nhận, phân tích các đối tượng

+ Đoạn trích 1: “Dì Hảo”- Nam Cao

Cách kể chuyện: Dì Hảo được kể bằng ngôi thứ nhất nhưng nhân vật tôi lại chỉ là đứa cháu nuôi, chính mối quan hệ đó làm cho câu chuyện vừa có màu sắc chủ quan cũng vừa hết sức khách quan. Trong khi đó Nhà mẹ Lê được kể bằng ngôi thứ ba, người kể như đứng ngoài câu chuyện để quan sát, kể chuyện nhưng vẫn đầy sự xót xa, thương cảm.

– Xây dựng cốt truyện:

+ Dì Hảo là một truyện ngắn gần như không có cốt truyện mà chỉ tập trung xoay quanh những bất hạnh và tủi nhục của người phụ nữ khốn khổ, thấp cổ bé họng trong xã hội lúc bấy giờ.

+ Nhà mẹ Lê cũng không hướng tới một cốt truyện li kì nhưng lại xây dựng được những tình tiết bất ngờ và hấp dẫn: Tình tiết mẹ Lê đi vay gạo, tình tiết mẹ Lê bị chó cắn, tình tiết mẹ Lê từ giã cõi đời để lại đàn con bơ vơ, nheo nhóc.

– Cách xây dựng nhân vật:

+ Truyện ngắn Dì Hảo:

++ Tác giả xây dựng chuỗi chi tiết để khắc họa cả cuộc đời khốn khổ của nhân vật từ khi còn là đứa trẻ. Nhưng ẩn phía sau vẫn là những nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam: cam chịu, nhẫn nhục, không bao giờ ngừng yêu thương.

+++ Ngay từ tấm bé dì Hảo đã trở thành vật đem trao bán đi để làm con ở người hầu cho nhà giàu
+++ Bi kịch lớn nhất gắn liền với cuộc đời dì Hảo là phải cưới và chung sống với một người chồng tàn nhẫn, mê sắc và cơm rượu, Hắn là một kẻ tục tằn, thô bỉ và không yêu thương hay tôn trọng dì Hảo chút nào, hắn khinh cô là đứa con nuôi rơi rớt rồi bỏ mặc có những lúc đớn đau.

+++ Ấy vậy dì Hảo vẫn cho rằng dì phải làm mà nuôi nó, cứ tưởng không có được tình yêu thì chí ít còn sức khỏe nhưng sau lần sinh đứa con bất thành dì Hảo trở nên kiệt quệ.

++ Tác giả đi sâu khắc họa những hành động chứa chở chiều sâu tâm tư, nỗi niềm nhân vật, chứ không chủ công tạo sự bất ngờ hoặc đột phá trong hành động ấy. Nhờ vậy, người đọc hình dung bi kịch này nối tiếp bi kịch khác khiến người đàn bà vốn đã yếu đuối này càng đáng thương và thảm hại hơn. Nhưng rồi dì Hảo cũng trầy trật gắng vượt qua quãng thời gian bế tắc ấy mà tìm cách sống tiếp trên mảnh đất cằn cỗi này, người phụ nữ nghèo khổ ấy lại muốn người chồng đã bỏ đi kia quay lại để nuôi. Chấp nhận hắn cơm rượu, nhưng hắn đã trở về với những thứ còn tồi tệ hơn cả ngày trước rồi lại bỏ đi. Chai sạn với tổn thương và sự bế tắc khi đối diện thực tại đã đẩy dì Hảo vào trạng thái cam chịu, bỏ qua tất cả mọi thứ.

+ Truyện ngắn Nhà mẹ Lê: Tác giả chớp lấy một chặng đời cùng khổ nhất để từ đó khiến người đọc hình dung cả cuộc đời ngập chìm trong nghèo khổ, đói rách của nhân vật. Thế nhưng nhân vật vẫn tỏa sáng những phẩm cách cao quý:

++ Mẹ Lê làm mẹ của tận mười một người con nheo nhóc. Cái đói, sự túng quẫn đặc trưng của cái xã hội thời bấy giờ được hiện lên. Đã nghèo, đã đói khát nhưng mẹ Lê lại đẻ nhiều con khiến cho sự túng quẫn, khổ sở hơn gấp nhiều lần.

++ Đói rét, nghèo khổ, túng quẫn khi tận mười mấy con người nheo nhóc trong cái nhà được miêu tả như cái “ổ chó” cùng với sự châm biếm miêu tả mẹ con nhà mẹ Lê như những “chó mẹ và chó con”  toát lên được sự chua xót, khổ cực đến nỗi so sánh người với động vật như vậy.

++ Thế nhưng, người mẹ này luôn âm thầm chịu đựng sự vất vả một mình lam lũ, không than thở hay hờn trách một câu. Hình ảnh mẹ Lê là hiện diện của cả triệu bà mẹ thời bấy giờ, có khổ đến mấy cũng không bỏ con, thà chịu đói, chịu rét, chịu hết tất cả sự khổ đau thì cũng nuôi con cho bằng được.

++ Sự cao cả ấy được hiện diện rõ nhất là lấy sự vất vả vì có việc làm niềm vui, vì lúc ấy có người thuê làm việc, có vài bát gạo, vài đồng bạc để nuôi con. Lúc đó, con bà có bát cơm để no bụng. Nhưng rồi mẹ lại chìm trong sự lo âu, đến mùa đông hết việc chỉ còn rạ khô ngoài đồng, không ai thuê mẹ nữa, con mẹ lại chịu đói từng bữa. Những đứa con nheo nhóc oằn mình chịu đói chịu rét đến ngày mùa năm sau. Cái khổ của nhà mẹ Lê là nhà quá đông con khiến mẹ phải oằn mình lo toan mọi thứ, thậm chí là oằn mình chịu rét che chở cho con, cố lấy thân xác của mình che chở cho đứa con nhỏ rét run lên vì lạnh…

++ Nhân vật được xây dựng qua hình dáng, hành động và cả những nét tính cách bên trong.

+++ Bên ngoài: một người đàn bà với làn da nhăn nheo như quả trám khô, thân hình thấp bé khắc khổ.

mẹ của mười một đứa con, đứa lớn nhất mới mười bảy, đứa bé nhất vẫn còn bế trên tay, một người mẹ lam lũ, tảo tần không ngại bất kì một công việc cơ khổ nào.

+++ Bên trong lại là một người mẹ thương con, sẵn sàng hi sinh tất cả vì con.

– Cách sử dụng từ ngữ và các biện pháp tu từ:

+ Nhà mẹ Lê: Nghệ thuật so sánh, miêu tả với sắc thái châm biếm: cái nhà được miêu tả như cái “ổ chó”, “chó mẹ và chó con” toát lên sự chua xót, cùng cực.

+ Dì Hảo: Điểm nổi bật đặc biệt của tác phẩm là cách sử dụng từ ngữ mang sắc màu biểu cảm để lột tả cái khốn khổ, đau đớn. Tác giả dùng bút pháp tả thực để tái hiện chân thật đến xót xa hình ảnh người phụ nữ đơn thân, vật lộn với cuộc sống mưu sinh khốn khổ và đầy cay đắng.

+ Đoạn trích 2: “Mợ Du” – Nguyên Hồng

++ Truyện ngắn Mợ Du không nằm ngoài trường cảm xúc ấy của Nguyên Hồng. Câu chuyện hằn lên như một nỗi đau, niềm ân hận và cả những giọt nước mắt nghẹn ngào. Giản dị mà không bình thường, sâu kín mà không tĩnh lặng… truyện Mợ Du hấp dẫn người đọc bởi chính tìm thương yêu cháy bỏng đớn đau. Đi chênh vênh giữa hai bờ quá khứ và hiện tại, mất mát và xa xót là nhân vật “tôi” – tác giả, chú bé của những hoài niệm về tuổi thơ đã qua; gắn với những lần gặp gỡ vội vã, giấu giếm đầy bi kịch của hai mẹ con mợ Du – nhân vật trung tâm của truyện.

++ Không ai biết người đàn bà ấy đã “phạm tội” gì cụ thể, vì sao mà phải bỏ nhà đi, phải xa con. Nhưng chắc rằng lí do nằm ngay trong những giọt nước mắt vụng trộm của mợ Du. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến đã “xuất giá” là phải “tòng phu”, là thuộc về gia đình chồng, bị trói buộc trong giáo điều hà khắc, luẩn quẩn. Thế nhưng mợ Du đã trót đa mang. Tâm hồn người phụ nữ ấy không chịu nằm yên gò bó giữa “tam tòng, tứ đức”. Mợ ra đi bởi điều gì? Có lẽ mợ theo tiếng gọi của tình yêu, hay là buộc phải đi vì thói thường đâu có chấp nhận một người đàn bà “lệch chuẩn”, đa đoan. Mợ Du ơi, giá mợ cứ đanh đá, lăng loàn đi, chắc mợ sẽ đỡ khổ. Hay là mợ phơi phới, vui tươi trong tình duyên mới, nỗi đau sẽ dịu đi nhiều. Đằng này, mợ tháo dây trói cuộc đời làm dâu, làm vợ, mà không tháo nổi sợi dây vô hình của tình mẹ con. Mợ cũng chỉ là một người đàn bà. Thượng đế ác thay, khi tạo ra đàn bà đã đặt vào họ một dây thần kinh nhạy cảm đặc biệt – đó là tình yêu thương. Họ luôn khao khát được chăm sóc, chở che, được yêu thương, vỗ về. Họ yếu đuối, đa cảm. Nếu như với đàn ông, công danh, sự nghiệp là điều quan trọng hơn cả, thì phụ nữ lại thèm khát, nâng niu những tình cảm thật mỏng manh. Với một người phụ nữ, còn gì hơn là được làm vợ, làm  mẹ. Phần mẫu tính không bao giờ mất ấy có khi lại là nguyên nhân của những nỗi đau, những bi kịch không lời. Đã có biết bao người đàn bà âm thầm nén chịu bất công, đau khổ. Những mối quan hệ “mẹ chồng nàng dâu”, của dân làng, của xã hội, của tất cả đều chống lại người phụ nữ. Quyền làm vợ, làm mẹ theo đúng nghĩa của nó dường như không còn nữa. Những người đàn bà cứ chết dần, chết mòn đi trong chính gia đình của mình. Cuộc đời trở thành cái vòng luẩn quẩn tù túng đầy những đe dọa. Mợ Du sinh ra cũng là để chịu một số phận như thế. Mợ vùng vẫy thoát ra. Nhưng mợ có thoát được không? Miệng tiếng thế gian, sự chửi rủa của gia đình chồng… Tất cả như những mũi dao luôn chĩa thẳng vào mợ, xua đuổi mợ ra khỏi xã hội mà mợ đang sống. Mợ bỏ chạy, mợ đi thật xa. Thế mà mợ có đi được đâu, tiếng khóc, tiếng gọi của đứa con cứ kéo mợ trở về đau đớn và dai dẳng, tình mẫu tử bắt mợ phải thành kẻ lén lút như có tội

++ Truyện ngắn Mợ Du khép lại trong một âm hưởng thật buồn, nỗi buồn tràn ngập cả không gian, tràn cả vào lòng người đọc. Số phận mợ Du như một dấu hỏi xoáy sâu vào tâm can mỗi người. Có phải cuộc đời ấy khổ đau là do “số”, do trời định? Có phải nếu chịu ép mình trong gia đình nhà  chồng, mợ Du sẽ không phải khổ? Không, nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự bỏ trốn của mợ chính là do xã hội với những quan niệm nghiệt ngã, phi nhân tính đã cướp đi của người phụ nữ hạnh phúc và quyền lợi. Họ không sống thực, mà chỉ tồn tại như một công cụ của nhà chồng. Nguyễn Du đã phải đau đớn thốt lên:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Mợ Du không chịu nổi, không chịu được vòng trói buộc hà khắc ấy. Mợ đã phải ra đi tìm một cuộc sống mới. Nhưng mợ Du lại là một người mang một tình yêu con tha thiết. Mợ không thể giống như những Loan, những Tuyết, những Nhung… trong các tác phẩm của Tự lực văn đoàn quyết dứt áo ra đi vì Cái Mới, vì tự do. Trong mợ có sự giằng xé, mâu thuẫn giữa hai con người, một bên là người đàn bà muốn tìm kiếm hạnh phúc, một bên là người mẹ đâu có thể xa rời đứa con mình. Mợ Du chịu nỗi đau thể xác chưa đủ, còn phải gánh thêm gánh nặng tinh thần trĩu xuống đôi vai. Nỗi đau của mợ Du là ở chỗ mợ không thể giải quyết được những mâu thuẫn của mình, mợ chới với giữa hai bờ đau khổ. Cuộc đời mới, cuối cùng còn lại gì? Một thân xác ốm đau bẩn thỉu phải nhờ vào sự hảo tâm chôn cất. Một gánh hàng cũng nhếch mác, đáng đổ đi không ai nhặt. Mợ chết đi không có ai khóc thương (ngoại trừ cậu bé sau này mới nhận ra mợ thì đã quá muộn), không ai thân thích. Mợ lặng lẽ đi tìm một chỗ nào đó, ở trên kia, cao lắm, để từ đó nhìn xuống thế gian đầy rẫy bi kịch này. Mợ đã chấm dứt được quãng đời đau khổ của mình một cách khổ đau.

++ Nguyên Hồng có lối viết văn rất bình dị, giản đơn như chính cuộc đời đi vào tác phẩm. Tác phẩm của ông không hấp dẫn người đọc bởi những câu chữ cầu kì mới lạ, những biện pháp nghệ thuật độc đáo. Người ta yêu văn Nguyên Hồng do cái tình rất mạnh chi phối toàn bộ mạch truyện.

++Văn chương là chuyện của muôn đời, muôn người. Sức hấp dẫn của nó không gì cưỡng lại nổi. Đọc truyện ngắn Mợ Du, ta như một lần nữa được nhìn thấy một chân trời cảm xúc vừa quen thuộc vừa mới mẻ, truyện ngắn giúp ta hiểu hơn về những xúc cảm sâu xa trong tâm hồn con người. Bền bỉ, lặng lẽ và dào dạt, mạch ngầm của yêu thương vẫn mãi chảy suốt cùng tháng năm, cùng loài người. Đến một lúc nào đó, ta nhận ra rằng: Con người được làm nên chính bởi tình yêu thương.

– Luận điểm 2: So sánh đánh giá hai đọan trích

+điểm giống nhau giữa hai tác phẩm

“ Giá trị của tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó”. Hai đoạn trích trong hai truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng gặp nhau trước tiên ở giá trị tư tưởng

++ Cả hai đều viết về đề tài người phụ nữ với số phận cuộc đời đầy bất hạnh từ đó thể hiện sự cảm thông xót xa, thương yêu cùng niềm trân trọng, ngợi ca bênh vực những người phụ nữ thấp cổ bé họng.

++ Hình tượng nhân vật trung tâm ở hai đoạn trích là Dì Hảo và Mợ Du. Đều là nhwungx người phụ nữ bất hạnh, số phận khổ cực, lấy chồng họ đều gặp những người chồng không ra gì, đều phải lao động quần quật chịu ghẻ lạnh, hành hạ

++ Điểm giống nhau về nghệ thuật: cả hai đoạn trích đều tiêu biểu cho đặc trưng của thể loại truyện ngắn, đều sử dụng ngôi kể, có kết hợp các điểm nhìn như điểm nhìn của người kể chuyện, điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn bên trong, bút pháp tả thực, đi sâu vào phân tích tâm lí nhân vật…

+ sự khác nhau

++ Đoạn trích “Mợ Du” Khác họa số phận khổ đau bất hạnh của nhân vật mợ Du:  một người phụ nữ bỏ chồng để rồi phải chịu số phận bị nhà chồng khinh thường, ghét bỏ, không được lại gần gặp con. Còn đoạn trích “Dì Hảo” khắc họa số phận của người phụ nữ bất hạnh, mồ côi cha, phải sớm đi làm con ở, phảo chung sống với một người chồng cờ bạc, vũ phu, không được yêu thương mà còn bị khinh ghét, đánh đạp. Đó còn là người phu nữ chịu nỗi đau mất con, nỗi đau bị bệnh tật giày vò.

++ Điểm khác nhau về nghệ thuật: Đoạn trích “ Mợ Du” Ngôi kể thứ nhất, có sự kết hợp giữ điểm nhìn bên trong với điểm nhìn bê ngoài, giọng điêuk của người kể chuyện, của nhân vật, có lối viết văn rất bình dị, giản đơn. Còn đoạn trích “Dì Hảo” là ngôi kể thứ ba, là sự kết hợp giữ điểm nhìn bên trong và điểm nhìn của người kể chuyện cùng với ngôn ngữ nửa trực tiếp…

– Luận điểm 3: Lí giải sự giống nhau và khác nhau

+ Cả hai tác phẩm đều lấy bối cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến

+ Cả Nam Cao và Nguyên Hồng đều là những nhà văn có tấm long nhân đạo cao cả, đều có chung quan điểm nghệ thuật “nghệ thuật vị nhân sinh”

+ Tuy nhiên, mỗi nhà văn lớn đều có phong cách độc đáo sáng tạo. Vì thế, cùng chung đề tà về người phụ nữ những hai tác phẩm đều có những nét riêng mang phong cách của mỗi nhà văn và cái nhìn hiện thức khác nhau.

* Đánh giá chung

– Hai đoạn trích tuy là nhwungx lát cát nhỏ trong thiên truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng nhưng đã phản ảnh chân thực số phận, cuộc đời của những người lao đông nghèo khổ dưới ách thực dân phong kiến. đầy nhwungx bất công, từ đó cất lên tiếng nói tố cáo những quan niệm những định kiến về thân phận người phụ nữ trong xã hội, cùng sự thấu hiểu, cảm thông trân trọng yêu thương những người phụ nữ nhỏ bé, bất hạnh

– Với giọng văn giản dị mà thầm trầm sâu sắc cả hai đoạn trích đã thể hiện phong cách độc đáo của hai nhà văn

Kêt bài

– Khẳng định  sức sống của hai tác phẩm

 

BÀI VĂN

Nguyễn Văn Siêu từng khẳng định: “Văn học có loại đáng tôn thờ, có loại không đáng tôn thờ. Loại không đáng tôn thờ chỉ chuyên chú vào văn chương; loại đáng tôn thờ chuyên chú ở con người.” Có thể nói, tác phẩm văn học luôn phản ánh chân thực hiện thực cuộc sống, luôn lấy con người làm tâm điểm phản ánh. Thông qua hình tượng con người gửi gắm những tư tưởng tình cảm của nhà văn đồng thời hướng người đọc đến những vẻ đẹp Chân –Thiện- Mĩ. Hai tác phẩm “Mợ du” của Nguyên Hồng và “Dì Hảo” của Nam Cao là những tác phẩm như vây. Cùng lấy đề tài về người phụ nữ cho đứa con tinh thần của mình, Cả Nam Cao và Nguyên Hồng đã làm nên những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật.

Nam Cao (1915-1951) tên thật là Trần Hữu Tri, là nhà văn lớn, một cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại, là nhà văn hiện thực nhân đạo xuất sắc của thế kỉ XX. Nam Cao đã đưa chủ nghĩa hiện thực lên một bước đột phá: chủ nghĩa hiện thực tâm lí. Ông nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 1996. Phong cách nghệ thuật của ông: Đề cao tư tưởng con người : Quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá “con người trong con người”. Đi sâu khám phá nội tâm nhân vật. Thường viết về những cái nhỏ nhặt nhưng lại mang ý nghĩa triết lý sâu sắc. Ông có phong cách triết lý trữ tình sắc lạnh. Ông để lại khối lượng tác phẩm lớn với nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, truyện ký như các tác phẩm: “Sống mòn”, “Lão Hạc”, “Chí Phèo”, “ Giăng sáng”, “Lão Hạc”, “Chí Phèo”, “Đôi mắt”, …

Nguyên Hồng: Trong văn đàn Việt Nam, nhà văn Nguyên Hồng được đồng nghiệp và bạn đọc ưu ái gọi bằng một “danh hiệu”: Nhà văn của phụ nữ và trẻ em. Nhà văn Nguyên Hồng sinh năm 1918 mất năm 1982. Tên khai sinh của ông là Nguyễn Nguyên Hồng, quê ở thành phố Nam Định. Nguyên Hồng sống chủ yếu ở thành phố cảng Hải Phòng. Nguyên Hồng từng có một tuổi thơ bất hạnh. Hồi kí Những ngày thơ ấu được coi là những dòng hồi ức sinh động, chân thực đầy cay đắng về tuổi thơ không êm đềm của nhà văn. Ông viết nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, thơ. Các tác phẩm chính của Nguyên Hồng: Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938); Những ngày thơ ấu (hồi kí, 1938); Trời xanh (tập thơ, 1960); Cửa biển (bộ tiểu thuyết 4 tập: 1961, 1967, 1973, 1976); Núi rừng Yên Thế (bộ tiểu thuyết lịch sử nhiều tập chưa viết xong); Bước đường viết văn (hồi kí, 1970). Trong những tác phẩm của Nguyên Hồng, hình ảnh người phụ nữ và trẻ em trong xã hội cũ được nhà văn dành nhiều niềm yêu thương, đồng cảm. Với những đóng góp của Nguyên Hồng dành cho nền văn học dân tộc, ông được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.

Cả hai truyện ngắn “ Dì Hảo” và “Mợ Du” là những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài phụ nữ của hai nhà văn. Đặc biệt là hai đoạn trích trên đã thể hiện những nét đăc sắc về cả nội dung và nghệ thuật.

Nguyễn Minh Châu từng khẳng định: “Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người.” Có thể nói, khi đọc tác phẩm “Dì Hảo”  người đọc luôn ấn tượng sâu sắc với hình tượng Dì Hảo. Dì Hảo và số phận hẩm hiu, lênh đênh tệ bạc Ở cái thời đại mà nghèo túng quá rồi, người ta sẽ tìm cách càng bớt miệng ăn đi càng tốt và những đứa trẻ mới ngót nghét vài tuổi bỗng trở thành vật đem trao bán đi để làm con ở, người hầu cho nhà giàu. Dì Hảo là con gái bà xã Vận, một người làm bánh đúc ngon có tiếng của làng Vũ Đại, bánh đúc là một thứ quà quê xuất hiện nhiều trong các truyện ngắn của Nam Cao thường được bày bán trên các mẹt ven chợ và xúm xít bởi các bà các mẹ mặc váy bạc phếch. Khi dì phải đẻ con, đứa bé đã chết và dì thì tê liệt. Hắn chửi dì nhiều lần, nhưng dì vẫn nghiến răng để không khóc, nhưng cuối cùng, nước mắt vẫn tuôn rơi. Dì đã trải qua bao nhiêu gian khổ và đau khổ, nhưng bệnh tật của dì đã qua đi và cô lại đi làm để kiếm sống. Người chồng trở về sau đó với một người vợ mới, nhưng dì Hảo không nói một lời nào, chỉ khóc ngấm ngầm khi họ cười vui. Cuối cùng, người chồng rời đi và dì lại phải đối mặt với sự cô đơn và đau khổ:  “Dì Hảo chẳng nói năng gì. Dì nghiến chặt răng để cho khỏi khóc nhưng mà dì cứ khóc. Trong cuộc đời đầy đau thương của dì Hảo, có một người phụ nữ vẫn giữ được tình người và lòng nhân ái, đó là bà ngoại của nhân vật chính. Bà xuất hiện từ những trang sách đầu tiên với tư cách là một người chủ nợ, nhưng thay vì làm tổn thương con nợ, bà lại chấp nhận nuôi dì Hảo và trả công cho cô nàng hơn một chút để trừ vào số nợ của bà Vận. Bà ngoại là một người đáng kính và đáng trân trọng, người đã giúp đỡ dì Hảo qua những thời khắc khó khăn nhất của cuộc đời. Và hình ảnh dì Hảo cố gắng cắn chặt răng để không khóc, và đặt ra câu hỏi liệu có chồng trở về hay không cũng chẳng có ý nghĩa gì, khiến cho người đọc phải suy tư về một thời đại bế tắc và để lại dư vị đắng cay trong lòng. Chao ôi! Dì Hảo khóc. Dì khóc nức nở, khóc nấc lên, khóc như người ta thổ. Dì thổ ra nước mắt”. Dù có những lúc ngạc nhiên và tức giận, dì Hảo vẫn luôn nhẫn nại và kiên cường đối mặt với cuộc sống khó khăn. Vì đúng là, trong cuộc đời này, đôi khi việc nhẫn nại cũng tốt hơn, đặc biệt là trong những hoàn cảnh khó khăn và đau buồn như vậy. Dì Hảo đã rơi vào tình trạng chịu đựng và không chấp nhận thực tế, đầy những rắc rối và tổn thương. Điều này thường xuyên xảy ra với các phụ nữ trong thời kỳ Cách mạng, khi họ bị đè nén và không thể đối mặt với thực tế. Thay vì đấu tranh để phục hồi tôn nghiêm của mình, họ đành chấp nhận những đau khổ và khó khăn trong sự im lặng và kiên nhẫn. Mỗi trang văn in bóng một cuộc đời, mỗi tác phẩm hằng in tâm tình người nghệ sĩ. Chắc hẳn nhân vật dì Hảo trong tác phẩm cùng sẽ đ cùng năm tháng.

Nếu trong tác phẩm “Dì Hảo” nhân vật chính là Dì Hảo với số phận hẩm hiu chịu nhiều đau khổ thì trong tác phẩm của Nguyên Hồng, Hình tượng Mợ Du cũng đã ám ảnh người đọc bởi số phận bất hạnh không khác gì so với Dì Hảo. Truyện ngắn Mợ Du không nằm ngoài trường cảm xúc ấy của Nguyên Hồng. Câu chuyện hằn lên như một nỗi đau, niềm ân hận và cả những giọt nước mắt nghẹn ngào. Giản dị mà không bình thường, sâu kín mà không tĩnh lặng… truyện Mợ Du hấp dẫn người đọc bởi chính tìm thương yêu cháy bỏng đớn đau. Đi chênh vênh giữa hai bờ quá khứ và hiện tại, mất mát và xa xót là nhân vật “tôi” – tác giả, chú bé của những hoài niệm về tuổi thơ đã qua; gắn với những lần gặp gỡ vội vã, giấu giếm đầy bi kịch của hai mẹ con mợ Du – nhân vật trung tâm của truyện.

Không ai biết người đàn bà ấy đã “phạm tội” gì cụ thể, vì sao mà phải bỏ nhà đi, phải xa con. Nhưng chắc rằng lí do nằm ngay trong những giọt nước mắt vụng trộm của mợ Du. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến đã “xuất giá” là phải “tòng phu”, là thuộc về gia đình chồng, bị trói buộc trong giáo điều hà khắc, luẩn quẩn. Thế nhưng mợ Du đã trót đa mang. Tâm hồn người phụ nữ ấy không chịu nằm yên gò bó giữa “tam tòng, tứ đức”. Mợ ra đi bởi điều gì? Có lẽ mợ theo tiếng gọi của tình yêu, hay là buộc phải đi vì thói thường đâu có chấp nhận một người đàn bà “lệch chuẩn”, đa đoan. Mợ Du ơi, giá mợ cứ đanh đá, lăng loàn đi, chắc mợ sẽ đỡ khổ. Hay là mợ phơi phới, vui tươi trong tình duyên mới, nỗi đau sẽ dịu đi nhiều. Đằng này, mợ tháo dây trói cuộc đời làm dâu, làm vợ, mà không tháo nổi sợi dây vô hình của tình mẹ con. Mợ cũng chỉ là một người đàn bà. Thượng đế ác thay, khi tạo ra đàn bà đã đặt vào họ một dây thần kinh nhạy cảm đặc biệt – đó là tình yêu thương. Họ luôn khao khát được chăm sóc, chở che, được yêu thương, vỗ về. Họ yếu đuối, đa cảm. Nếu như với đàn ông, công danh, sự nghiệp là điều quan trọng hơn cả, thì phụ nữ lại thèm khát, nâng niu những tình cảm thật mỏng manh. Với một người phụ nữ, còn gì hơn là được làm vợ, làm  mẹ. Phần mẫu tính không bao giờ mất ấy có khi lại là nguyên nhân của những nỗi đau, những bi kịch không lời. Đã có biết bao người đàn bà âm thầm nén chịu bất công, đau khổ. Những mối quan hệ “mẹ chồng nàng dâu”, của dân làng, của xã hội, của tất cả đều chống lại người phụ nữ. Quyền làm vợ, làm mẹ theo đúng nghĩa của nó dường như không còn nữa. Những người đàn bà cứ chết dần, chết mòn đi trong chính gia đình của mình. Cuộc đời trở thành cái vòng luẩn quẩn tù túng đầy những đe dọa. Mợ Du sinh ra cũng là để chịu một số phận như thế. Mợ vùng vẫy thoát ra. Nhưng mợ có thoát được không? Miệng tiếng thế gian, sự chửi rủa của gia đình chồng… Tất cả như những mũi dao luôn chĩa thẳng vào mợ, xua đuổi mợ ra khỏi xã hội mà mợ đang sống. Mợ bỏ chạy, mợ đi thật xa. Thế mà mợ có đi được đâu, tiếng khóc, tiếng gọi của đứa con cứ kéo mợ trở về đau đớn và dai dẳng, tình mẫu tử bắt mợ phải thành kẻ lén lút như có tội

Truyện ngắn Mợ Du khép lại trong một âm hưởng thật buồn, nỗi buồn tràn ngập cả không gian, tràn cả vào lòng người đọc. Số phận mợ Du như một dấu hỏi xoáy sâu vào tâm can mỗi người. Có phải cuộc đời ấy khổ đau là do “số”, do trời định? Có phải nếu chịu ép mình trong gia đình nhà  chồng, mợ Du sẽ không phải khổ? Không, nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự bỏ trốn của mợ chính là do xã hội với những quan niệm nghiệt ngã, phi nhân tính đã cướp đi của người phụ nữ hạnh phúc và quyền lợi. Họ không sống thực, mà chỉ tồn tại như một công cụ của nhà chồng. Nguyễn Du đã phải đau đớn thốt lên:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Mợ Du không chịu nổi, không chịu được vòng trói buộc hà khắc ấy. Mợ đã phải ra đi tìm một cuộc sống mới. Nhưng mợ Du lại là một người mang một tình yêu con tha thiết. Mợ không thể giống như những Loan, những Tuyết, những Nhung… trong các tác phẩm của Tự lực văn đoàn quyết dứt áo ra đi vì Cái Mới, vì tự do. Trong mợ có sự giằng xé, mâu thuẫn giữa hai con người, một bên là người đàn bà muốn tìm kiếm hạnh phúc, một bên là người mẹ đâu có thể xa rời đứa con mình. Mợ Du chịu nỗi đau thể xác chưa đủ, còn phải gánh thêm gánh nặng tinh thần trĩu xuống đôi vai. Nỗi đau của mợ Du là ở chỗ mợ không thể giải quyết được những mâu thuẫn của mình, mợ chới với giữa hai bờ đau khổ. Cuộc đời mới, cuối cùng còn lại gì? Một thân xác ốm đau bẩn thỉu phải nhờ vào sự hảo tâm chôn cất. Một gánh hàng cũng nhếch mác, đáng đổ đi không ai nhặt. Mợ chết đi không có ai khóc thương (ngoại trừ cậu bé sau này mới nhận ra mợ thì đã quá muộn), không ai thân thích. Mợ lặng lẽ đi tìm một chỗ nào đó, ở trên kia, cao lắm, để từ đó nhìn xuống thế gian đầy rẫy bi kịch này. Mợ đã chấm dứt được quãng đời đau khổ của mình một cách khổ đau.

Nguyên Hồng có lối viết văn rất bình dị, giản đơn như chính cuộc đời đi vào tác phẩm. Tác phẩm của ông không hấp dẫn người đọc bởi những câu chữ cầu kì mới lạ, những biện pháp nghệ thuật độc đáo. Người ta yêu văn Nguyên Hồng do cái tình rất mạnh chi phối toàn bộ mạch truyện.

Văn chương là chuyện của muôn đời, muôn người. Sức hấp dẫn của nó không gì cưỡng lại nổi. Đọc truyện ngắn Mợ Du, ta như một lần nữa được nhìn thấy một chân trời cảm xúc vừa quen thuộc vừa mới mẻ, truyện ngắn giúp ta hiểu hơn về những xúc cảm sâu xa trong tâm hồn con người. Bền bỉ, lặng lẽ và dào dạt, mạch ngầm của yêu thương vẫn mãi chảy suốt cùng tháng năm, cùng loài người. Đến một lúc nào đó, ta nhận ra rằng: Con người được làm nên chính bởi tình yêu thươn

“ Giá trị của tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó”. Hai đoạn trích trong hai truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng gặp nhau trước tiên ở giá trị tư tưởng. Cả hai đều viết về đề tài người phụ nữ với số phận cuộc đời đầy bất hạnh từ đó thể hiện sự cảm thông xót xa, thương yêu cùng niềm trân trọng, ngợi ca bênh vực những người phụ nữ thấp cổ bé họng. Hình tượng nhân vật trung tâm ở hai đoạn trích là Dì Hảo và Mợ Du. Đều là nhwungx người phụ nữ bất hạnh, số phận khổ cực, lấy chồng họ đều gặp những người chồng không ra gì, đều phải lao động quần quật chịu ghẻ lạnh, hành hạ. Điểm giống nhau về nghệ thuật: cả hai đoạn trích đều tiêu biểu cho đặc trưng của thể loại truyện ngắn, đều sử dụng ngôi kể, có kết hợp các điểm nhìn như điểm nhìn của người kể chuyện, điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn bên trong, bút pháp tả thực, đi sâu vào phân tích tâm lí nhân vật…Tuy nhiên hai đoạn trích cũng có những đặc điểm riêng về nôi dung và nghệ thuật: Đoạn trích “Mợ Du” Khác họa số phận khổ đau bất hạnh của nhân vật mợ Du:  một người phụ nữ bỏ chồng để rồi phải chịu số phận bị nhà chồng khinh thường, ghét bỏ, không được lại gần gặp con. Còn đoạn trích “Dì Hảo” khắc họa số phận của người phụ nữ bất hạnh, mồ côi cha, phải sớm đi làm con ở, phảo chung sống với một người chồng cờ bạc, vũ phu, không được yêu thương mà còn bị khinh ghét, đánh đạp. Đó còn là người phu nữ chịu nỗi đau mất con, nỗi đau bị bệnh tật giày vò. Điểm khác nhau về nghệ thuật, đoạn trích “ Mợ Du” Ngôi kể thứ nhất, có sự kết hợp giữ điểm nhìn bên trong với điểm nhìn bê ngoài, giọng điêuk của người kể chuyện, của nhân vật, có lối viết văn rất bình dị, giản đơn. Còn đoạn trích “Dì Hảo” là ngôi kể thứ ba, là sự kết hợp giữ điểm nhìn bên trong và điểm nhìn của người kể chuyện cùng với ngôn ngữ nửa trực tiếp… Lý giải về sự khác nhau ấy: Cả hai tác phẩm đều lấy bối cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến. Cả Nam Cao và Nguyên Hồng đều là những nhà văn có tấm long nhân đạo cao cả, đều có chung quan điểm nghệ thuật “nghệ thuật vị nhân sinh”. Tuy nhiên, mỗi nhà văn lớn đều có phong cách độc đáo sáng tạo. Vì thế, cùng chung đề tà về người phụ nữ những hai tác phẩm đều có những nét riêng mang phong cách của mỗi nhà văn và cái nhìn hiện thức khác nhau.

Có thể nói, hai đoạn trích tuy là nhwungx lát cát nhỏ trong thiên truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng nhưng đã phản ảnh chân thực số phận, cuộc đời của những người lao đông nghèo khổ dưới ách thực dân phong kiến. đầy nhwungx bất công, từ đó cất lên tiếng nói tố cáo những quan niệm những định kiến về thân phận người phụ nữ trong xã hội, cùng sự thấu hiểu, cảm thông trân trọng yêu thương những người phụ nữ nhỏ bé, bất hạnh. Với giọng văn giản dị mà thầm trầm sâu sắc cả hai đoạn trích đã thể hiện phong cách độc đáo của hai nhà văn

Văn chương muôn đời là mảnh đất bí ẩn cần được khai thác. Người nghệ sĩ bằng tài năng của mình chắt chiu từng những hạt bụt vàng giữa cuộc đời để đúc nên “bông hồng vàng” luôn tỏa sáng. Để hiện thực trần trụi bước vào trang văn một cách đẹp đẽ hơn, nhà văn cần tinh tế trong quá trình sản sinh ra đứa con tinh thần của mình. Tác phẩm văn học dù cho viết về cái xấu hay cái tốt, lương thiện hay tàn ác nhưng một khi đã bắt rễ vào hiện thực và chất chứa những giá trị nhân văn to lớn thì mãi mãi văn học sẽ sống và bầu bạn với con người dẫu “mọi lý thuyết là màu xám, chỉ cây đời mãi mãi xanh tươi”. Quả thật như vây! Hai tác phẩm “Mợ Du” và “Dì Hảo” cùng với tên tuổi của Nam Cao và Nguyên Hồng sẽ mãi mãi băt tử với thời gian với những bài học triết lí nhân sinh sâu sắc,

Yêu thích
Câu hỏi sẽ hiện ở đây

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *