ĐỀ 5: Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai văn bản truyện dưới đây:
(1)Chúng tôi đóng quân trong làng, cấu trúc trận địa phòng ngự xong thì giặc tràn tới. Chúng từ các làng mạn trên thị xã tiến xuống. Tiếng súng cối nổ từ sáng sớm. Trên mé đường cái, xe cộ, súng ống, lính Tây, lính ngụy bắt đầu dàn đội hình chuẩn bị tiến vào làng. Trong bữa cơm liên hoan, quân dân ở sân đình, các cụ phụ lão cùng ban chỉ huy bộ đội đã chỉ tay về hướng địch mà thề sống chết có nhau. Đơn vị chúng tôi hôm đó phòng ngự cố thủ. Gần hai trăm đồng bào không chịu tản cư, cương quyết ở lại cùng bộ đội đánh giặc. Đội du kích xã bám sát bên từng hố chiến đấu của chúng tôi. Gần chiều, các làng xung quanh trông thấy lửa bốc lên từ lũy tre làng Đằng. Địch đã chiếm được nửa làng. Tôi bị thương nặng. Địch xung phong vào lối ngõ nhà Thận, nhà tôi ở. Lúc trông thấy những bóng áo trắng của lính Tây lấp ló sau cái ngõ trống, tôi bảo Thận: “Cô quay lại phía sau xem đồng bào còn ai thì dắt xuống hầm, mau!”. Thận không nghe. Cô chỉ có một thanh mã tấu, liền vứt thanh mã tấu xuống, nhặt lấy cây tiểu liên của tôi bắn chết một tên địch rồi cõng tôi lui về phía sau. Đêm ấy, đơn vị chúng tôi phá vòng vây thoát ra ngoài. Trừ một số du kích ở lại bám sát địch, nhân dân lại gồng gánh ra đi theo bộ đội. Một hàng cáng thương binh từ sân đình theo con ngòi sau làng lặng lẽ tiến ra bờ sông Thong. Tôi nằm trên chiếc võng bà mẹ Thận thường hay nằm. Người cáng tôi đêm ấy chẳng phải ai khác lại chính là Thận. Năm năm rồi, lúc nào tôi cũng như trông thấy một mép khăn mỏ quạ bay lất phất trên cái cổ cao rám nắng, và thanh mã tấu in hằn xuống một bên vai áo nâu cứ đánh lách cách bên thanh đòn khiêng.
(Trích Nhành mai, Nguyễn Minh Châu, Tuyển tập truyện ngắn, NXB Văn học, 2006, tr.14).
(2)Mùa hè năm ấy nhà tôi chuyển về thành phố. Thế là tôi xa bến Cốc, xa chị Thắm. Khi tôi ra đi, chị Thắm gọi tôi xuống đò cho ăn cháo cá. Tôi cũng không ngờ đó là bát cháo cá mòi cuối cùng tôi ăn trong thời trai trẻ. Một cuộc sống mới mở oà trước mặt tôi. Thành phố cũng bán cá mòi nhưng là thứ cá đã được ướp khô, rút ruột….
Năm ngoái, bỗng nhiên tôi có dịp trở về bến Cốc. Bây giờ tôi đã trưởng thành. Tôi làm công chức ở sở, lấy vợ, đẻ một đàn con đông đúc. Cuộc sống trưởng giả no đủ bao bọc lấy tôi. Có lẽ tôi cũng chẳng có gì phàn nàn cuộc sống. Ước mơ tuổi trẻ nhường chỗ cho bao nhu cầu thiết thực. Bến Cốc vẫn hệt như xưa. Cá mòi phơi trắng trên bờ. Bến đò rất ít những người qua lại. Cây gạo vẫn đứng cô đơn chốn cũ, màu hoa rực đỏ xao xuyến bồn chồn. Tôi bước xuống đò mà lòng bồi hồi khôn tả. Trên đò, một bà cụ già đang ngồi tư lự. Tôi bước lại gần khẽ hỏi: – Cụ ơi, chị Thắm lái đò còn ở đây không?
– Thắm ư?- Bà cụ thoáng nỗi ngạc nhiên. Tôi đứng lặng người khi nhận ra con đò cũ. Kỷ niệm ấu thơ bồng vụt hiện về. – ông quen nhà Thắm ư ông?- Bà cụ hỏi tôi, giọng nói nghẹn ngào- Bao nhiêu năm nay chẳng hề có ai hỏi thăm nhà Thắm….Nhà Thắm chết đuối hai chục năm rồi!
Tôi oà lên khóc nức nở. Xung quanh sông nước nhoà đi. Bà cụ lái đò vẫn đang rầu rầu kể lể: – Khốn nạn! nhà Thắm cứu được không biết bao người ở khúc sông này…Thế mà cuối cùng nó lại chết đuối mà không ai cứu…
(Trích Con gái thủy thần, Nguyễn Huy Thiệp,
Nguyễn Huy Thiệp truyện ngắn, NXB Hội nhà văn, 2005, tr115)
Chú thích:
-Tác giả: Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989), tên thật là Nguyễn Thí, là một nhà văn có ảnh hưởng quan trọng đối với văn học Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam và thời kỳ đầu của Đổi mới. Ông là một trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học Việt Nam 1954 – 1975. Trước những năm tám mươi, ông sáng tác theo khuynh hướng sử thi thiên về trữ tình, lãng mạn. Sau đó, ông chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức, triết lý nhân sinh. Một số tác phẩm chính của Nguyễn Minh Châu: Sau một buổi tập (1960); Cửa sông (1966), Dấu chân người lính (1972), Miền cháy (1977), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), Phiên chợ Giáp (1989),…
– Nguyễn Huy Thiệp là hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, để lại sức ảnh hưởng và dấu ấn lâu dài trên văn đàn. Ông viết nhiều thể loại: truyện ngắn, thơ, tiểu thuyết, tiểu luận văn chương, kịch… nhưng đặc sắc nhất là truyện ngắn. Truyện ngắn của ông có cấu trúc, nhân vật, ngôn ngữ, cách triển khai riêng biệt, ảnh hưởng đến nhiều cây bút trẻ.
Dàn ý
* Thân bài:
Đánh giá hai đoạn trích truyện
Nhành mai:
– Nội dung: Nhân vật tôi được xây dựng để ngợi ca hình ảnh những người lính trực tiếp cầm súng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Chính bởi thế, tôi xuất hiện là một anh lính pháo binh trẻ tuổi tên Lượng. Quan đôi mắt của Lượng, Nguyễn Minh Châu đã phản ánh lòng dũng cảm, đã ngợi ca tinh thần quyết tử của con người Việt trong kháng chiến
– Nghệ thuật:
+Điểm nhìn, ngôi kể, lời kể: Tác phẩm được xây dựng với điểm nhìn chủ yếu của nhân vật tôi, với cách kể chuyện ở ngôi thứ nhất Nguyễn Minh Châu đã tạo nên tính chân thực, giàu cảm xúc, hấp dẫn cho lời kể. Từ đó, dẫn dắt người đọc vào thế giới truyện độc đáo được nhà văn xây dựng.
+ Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện: nhẹ nhàng, hấp dẫn, dẫn dắt người đọc đi từ câu chuyện này tiếp đến câu chuyện khác, mọi diễn biến xoay quanh góc nhìn và cảm xúc của nhân vật tôi nhưng không vì thế mà nhân vật Thận hay những chi tiết, sự việc khác bị lãng quên. Tất cả tạo nên sự thống nhất.
+ Ngôn ngữ: giản dị, tự nhiên giúp bối cảnh của câu chuyện hiện lên chân thực, nhân vật hiện lên sinh động với những đặc điểm riêng, từ đó góp phần tạo nên nét riêng cho chủ đề của tác phẩm.
=>Nguyễn Minh Châu đã tạo nên mạch truyện giản dị, nhẹ nhàng nhưng phản ánh chân thực sự khốc liệt của chiến tranh, tình người và vẻ đẹp của trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc Việt.
Con gái thủy thần:
– Nội dung: Tâm hồn nhân hậu, quý trọng, yêu thương chị Thắm của nhân vật tôi dù trải qua thời gian năm tháng. Đau đớn trước cái chết của chị Thắm: Chị Thắm hiền lành, nhân hậu, cả đời đi cứu những người chết đuối nhưng cuối cùng bị chết đuối mà không ai cứu. Đó là tình cảm tiếc thương và vỡ mộng trước hình ảnh người chị trong kí ức.
– Nghệ thuật: Có sự đan xen yếu tố kì ảo và hiện thực, người kể chuyện ở ngôi thứ nhất nhưng có sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật tạo nên sự linh hoạt, nhiều điểm nhìn, nhân vật được khắc họa ở cả nội tâm và ngoại hiện, …
=> Qua nhân vật tôi, tác giả gửi gắm cái nhìn hiện thực sâu sắc: cuộc đời trần trụi, hiện thực nghiệt ngã không giống với những gì ta mơ ước, khao khát. Không phải cứ ở hiền sẽ gặp lành, làm điều tốt sẽ được báo đáp. Đôi khi, sống chân thực, tử tế nhưng lại gặp phải số phận bất hạnh, sự ghẻ lạnh của những người xung quanh.
So sánh, đánh giá hai đoạn trích
– Những điểm tương đồng giữa hai đoạn trích: Mang đặc trưng thể loại truyện ngắn, thể hiện được tư tưởng, tình cảm, quan niệm nghệ thuật của nhà văn; Đều chọn ngôi thứ nhất; điểm nhìn linh hoạt, lúc bên trong, lúc bên ngoài giúp tạo ra sự hứng thú và hấp dẫn cho người đọc.
– Những điểm khác biệt và điều kiện làm nên sự khác biệt ấy:
+ Nhành mai:
Số lượng nhân vật: đoạn trích có một nhân vật xưng tôi kể lại mọi tình tiết của câu chuyện đã diễn ra. Điều này tạo nên sự xung đột và mâu thuẫn cho câu chuyện.
Cách khắc họa đặc điểm nhân vật: Được khắc họa qua suy nghĩ bên trong và chủ yếu là qua độc thoại => Đặc điểm nhân vật được bộc lộ rõ nét.
Vẻ đẹp nhân vật: Những suy nghĩ của nhân vật tôi vẫn làm sáng lên vẻ đẹp của con người. Họ dù phải chịu sự tàn bạo, mất mát của chiến tranh thì vẫn luôn có một động lực giúp họ vượt qua, đó là tình yêu gia đình, vợ chồng, con cái, niềm hi vọng vào tương lai phía trước.
Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, đánh thức xúc động trong lòng độc giả.
+ Con gái thủy thần:
Nhân vật: tôi, bà cụ lái đò.
Cách khắc họa đặc điểm nhân vật: Được khắc họa qua lời kể, hành động và cảm xúc là chủ yếu, đối thoại có nhưng rất ít.
Vẻ đẹp nhân vật: Dù trong tận cùng khốn khổ họ vẫn yêu thương nhau không chân thành không toan tính vụ lợi.
Ngôn ngữ đối thoại gần với lời ăn tiếng nói đời thường, ngôn ngữ độc thoại chân chất mộc mạc đúng với bản chất của người bình dân
– Đánh giá chung về sự tương đồng, khác biệt giữa hai đoạn trích truyện và khẳng định giá trị độc đáo của mỗi tác phẩm và tác giả:
+ Hai tác phẩm được viết ở những giai đoạn văn học khác nhau: Trước và sau năm 1975.
+ Cả hai nhà văn đều đề cao vẻ đẹp của con người Việt Nam và thể hiện những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật: Nguyễn Minh Châu đi tìm hạt ngọc ẩn giấu sâu trong tâm hồn con người, đặc biệt người lính trong chiến tranh. Nguyễn Huy Thiệp quan tâm tới con người đời tư, số phận cá nhân, con người được đánh giá theo quan niệm đạo đức mới.
* Kết bài: Nêu ý nghĩa của việc đánh giá các tác phẩm truyện khi đặt chúng trong tương quan so sánh.
Viết bài văn đảm bảo các yêu cầu sau:
– Đảm bảo cấu trúc: Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.
– Triển khai ít nhất được hai luận điểm để làm rõ vấn đề nghị luận.
– Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.
– Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng; bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.
đ. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản.
Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.
Bài văn minh họa
Các Mác từng tâm niệm rằng : “Lấy con người làm đối tượng miêu tả,con người có một điểm tựa để nhìn ra thế giới”.Tự bao đời,mối bận tâm của văn học sẽ là gì nếu không phải là sự toàn tâm toàn ý viết về con người.Con người được lựa chọn là trung tâm để lí giải,soi chiếu và khám phá cuộc đời.Nhà văn không thể hớt cái váng bọt nổi trên bề mặt của vạn vật,dẫu viết về điều gì,ngòi bút ấy của anh vẫn sẽ hướng tới những con người chân chính trong tác phẩm của mình.Nếu như Nguyễn Minh Châu đi tìm kiếm vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời chiến trong “Nhành mai” qua đoạn trích “Chúng tôi đóng quân trong làng, cấu trúc trận địa phòng ngự xong thì giặc tràn tới… thanh đòn khiêng.” thì Nguyễn Huy Thiệp lại quan tâm tới số phận con người đời tư thế sự trong “Con gái thủy thần” qua đoạn trích “Mùa hè năm ấy nhà tôi chuyển về thành phố…Thế
Bằng những trải nghiệm của người nghệ sĩ chân chính, Nguyễn Minh Châu đã ca ngợi lòng dũng cảm của những người lính, lòng yêu quê hương đất nước của nhân dân qua tác phẩm “Nhành mai”. Nhân vật tôi được xây dựng để ngợi ca hình ảnh những người lính trực tiếp cầm súng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Chính bởi thế, tôi xuất hiện là một anh lính pháo binh trẻ tuổi tên Lượng.Bức tranh hiện thực thời chiến được dựng lên vô cùng khốc liệt.Đó là “Chúng từ các làng mạn trên thị xã tiến xuống. Tiếng súng cối nổ từ sáng sớm. Trên mé đường cái, xe cộ, súng ống, lính Tây, lính ngụy bắt đầu dàn đội hình chuẩn bị tiến vào làng”.Giặc đã tràn vào khu dân cư,tiếng bom,tiếng súng dội xuống làng quê yên bình,xét nát đi cái gọi là hoà bình của dân tộc.Nhưng trái ngược với sự nguy hiểm ấy,nhân dân lại bất khuất kiên cường hiên ngang : “Gần hai trăm đồng bào không chịu tản cư, cương quyết ở lại cùng bộ đội đánh giặc”.Đó là bản lĩnh,là lòng yêu nước của con người Việt Nam như Nguyễn Khoa Điềm từng viết:
“Người con trai ra trận
Người con gái ở nhà nuôi cái cùng con”
Là người tiên phong trong thế giới văn xuôi hiện đại,nhà văn Nguyễn Minh Châu đã có những chấm phá nghệ thuật độc đáo trong đoạn trích. Tác phẩm được xây dựng với điểm nhìn chủ yếu của nhân vật tôi, với cách kể chuyện ở ngôi thứ nhất Nguyễn Minh Châu đã tạo nên tính chân thực, giàu cảm xúc, hấp dẫn cho lời kể. Từ đó, dẫn dắt người đọc vào thế giới truyện độc đáo được nhà văn xây dựng. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện nhẹ nhàng, hấp dẫn, dẫn dắt người đọc đi từ câu chuyện này tiếp đến câu chuyện khác, mọi diễn biến xoay quanh góc nhìn và cảm xúc của nhân vật tôi nhưng không vì thế mà nhân vật Thận hay những chi tiết, sự việc khác bị lãng quên. Tất cả tạo nên sự thống nhất,kết hợp hài hòa hợp lí sâu sắc.Đặc biệt ngôn ngữ giản dị, tự nhiên giúp bối cảnh của câu chuyện hiện lên chân thực, nhân vật hiện lên sinh động với những đặc điểm riêng, từ đó góp phần tạo nên nét riêng cho chủ đề của tác phẩm.
Trong thế hệ nghệ sĩ của thời đại mới,Nguyễn Huy Thiệp là một dòng chảy lạ,ông được coi là người “tạo ra một cảm quan mới,cái nhìn mới về đời sống, dẫn đến một hướng viết mới, một ngôn ngữ mới, một cách biểu đạt mới trong văn xuôi Việt Nam hiện đại”(Văn Gía).Bởi thế,đoạn trích trên hướng tới khắc họa hình tượng nhân vật tôi hiểu chuyện,yêu thương và trân trọng quá khứ,giữ trong mình niềm tin với cuộc đời.Sau bao nhiêu năm xa quê cậu trở về quê nhà.Và ở nhân vật “tôi”,điều đáng để tâm nhất ấy là cậu bé hiểu chuyện,biết trân trọng tình nghĩa lại phải hứng chịu những bi kịch trong nhận thức,suy nghĩ về cuộc đời và con người.Bi kịch mà “tôi” đối mặt là:đau đớn vỡ mộng về cái chết của chị Thắm và hiểu về sự thực tai quái của cuộc đời với con người-ở hiền không chắc hẳn sẽ gặp lành.Bi kịch ấy xảy đến khi “tôi” đã trưởng thành,trong một lần về thăm quê nhà bến Cốc.Chính từ bi kịch ấy,ta mới thấy được hình ảnh một cậu bé biết trân trọng quá khứ,biết ơn người đã cưu mang và thấu hiểu được lẽ nhân sinh ở đời.Trở về quê hương là một công chức sở,cậu vẫn nhớ như in hình ảnh bến Cốc ngày xưa “hệt như xưa”.Nghĩa tình của cậu được tô đậm hơn nữa khi tác giả để cậu nhớ về chị Thắm trước kia đã cưu mang mình khỏi guồng quay sinh tử. “Tôi” gặp gỡ bà cụ và hỏi chuyện về chị Thắm.Nhưng rồi bi kịch thực sự xuất phát từ đây. “Tôi òa lên nức nở”,lại cảm giác “tê tái” khi nghe vẳng bên tai tiếng hát:
“Chảy đi sông ơi
Băn khoăn làm chi
Rồi sông đãi hết
Anh hùng còn chi?”
Những cảm xúc của một người biết ơn,đau xót trước sự ra đi của một ân nhân đã cứu giúp mình nhưng lại bị cuộc đời đầy vào bi thương và nghịch lí “nhà Thắm cứu được không biết bao nhiêu người ở khúc sông này…Thế mà cuối cùng nó lại chết đuối mà không ai cứu”.Cậu bé xót xa,đớn đau cho phận người phụ nữ,cảm thấy “cuộc sống hiện giờ của tôi vô nghĩa biết bao”.Có chăng,người phụ nữ trong thời đại cũng luôn phải gánh chịu những bất công như thế.Số phận chị Thắm gợi nhắc đến nhân vật Nhàn trong “Tro tàn rực rỡ”-Nguyễn Ngọc Tư,một người vợ luôn hết lòng vì chồng,làm mọi việc chỉ để nhìn thấy mặt chồng nhưng trong ánh mặt của Nhàn chỉ toàn là lửa,là tro.Số phận bất hạnh ấy khiến bất cứ ai cũng phải xót thương,giống như cậu bé đau đớn trước nghịch lí của chị Thắm bên bến Cốc thân thương.Hình ảnh con trâu đen được nhắc lại,nhưng nó đã biến mất hoàn toàn ý nghĩa biểu tượng của sự đẹp đẽ,của niềm tin về ai gặp được trâu phải là người tốt.Dường như, “tôi” đã hiểu ra cái lẽ đời mà bây lâu nay cậu vẫn lầm tưởng:con trâu đen chỉ là một huyền thoại khác xa với cuộc sống hài kịch,luôn bất ngờ,truân truyên và nghịch lí với con người.
“Hứng thú của một nhà văn cũng như các nhà phê bình văn học đôi khi không phải là câu chuyện được kể mà là cách kể”(Nguyễn Thanh Tú).Bằng “cách kể” đặc sắc,độc đáo,mới mẻ Nguyễn Huy Thiệp đã xây dựng thành công nhân vật “tôi” trong thiên truyện.Trước tiên là cách ông xây dựng không gian,thời gian có sự tiếp nối giữa quá khứ và hiện tại,tạo nên một hành trình dài để nhân vật bộc lộ tính cách.Nghệ thuật trần thuật cũng được vận dụng linh hoạt từ cách lựa chọn ngôi kể thứ nhất để dễ dàng thuật lại cảm xúc cho tới sự dịch chuyển linh hoạt các góc nhìn của truyện.Cùng với đó,nhà văn rất thành công khi xây dựng đan xen yếu tố hiện thực và kì ảo,huyền thoại (con trâu đen) để gây ấn tượng mạnh mẽ với bạn đọc,bộc phát tâm trạng nhân vật.Ngôn từ được sử dụng giản dị,thanh thoát với các cuộc hội thoại,độc thoại nội tâm thể hiện được phẩm chất của hình tượng nhân vật tôi trong suốt thiên truyện.
Đoạn trích là một trong những trích đoạn hay nhất của truyện ngắn,góp phần tô đậm tư tưởng và phong cách Nguyễn Huy Thiệp. Với nhân vật “tôi”,ông đã bộc phá được chân lí cao cả về cuộc đời rằng:Cuộc đời không phải là những gì đẹp đẽ,kì diệu như trong tâm tưởng,niềm tin của chúng ta,đôi khi nó trần trụi,khắc nghiệt và đặt ra những nghịch lí,gian truân với con người.Và với mỗi con người,sống tốt không đồng nghĩa với việc được đối xử tốt,ở hiền không chắc hẳn sẽ gặp lành.Đó là lẽ thường tình mà không phải ai cũng có thể thấu hiểu sâu sắc.
Xuất phát là những nhà văn tiên phong cho thể loại truyện ngắn trong văn xuôi hiện đại Việt Nam,hai đoạn trích trên của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp có những điểm gặp gỡ khi cùng phạm vi trong một thể loại.Cả hai trích đoạn đều đặt con người vào trung tâm để nhà văn lí giải,so sánh và bộc lộ ý niệm nghệ thuật của mình.Cùng với đó,hai đoạn văn còn đều được kể ở ngôi kể thứ nhất.Điểm nhìn của nhân vật có sự linh hoạt,đan xen luân phiên nhau.Điều này tạo sự hấp dẫn cho câu chuyện,lôi cuốn và thu hút bạn đọc đến với thiên truyện.
Dẫu vậy, “nhà văn không có phép thần thông để vượt ra khỏi thế giới này nhưng thế giới trong mắt nhà văn phải có hình sắc riêng”(Hoài Thanh).Hai đoạn trích của hai văn nhân đều có hình sắc riêng biệt,độc đáo trên một số những phương diện nội bật:nhân vật,nghệ thuật xây dựng nhân vật,ngôn ngữ truyện,…
Với “Nhành mai”,đoạn trích chỉ có một nhân vật duy nhất là Lượng-nhân vật chính của câu chuyện cũng như đoạn trích.Lượng đứng ra thuật lại câu chuyện tạo nên rất nhiều những mâu thuẫn xung đội nhưng khá chân thực về cuộc sống thời kháng chiến.Hơn hết,nhân vật xưng tôi chủ yếu bộc lộ tâm tình qua những lời độc thoại nhẹ nhàng,xuất phát từ con tim chân thành và từng trải. Những suy nghĩ của nhân vật tôi vẫn làm sáng lên vẻ đẹp của con người. Họ dù phải chịu sự tàn bạo, mất mát của chiến tranh thì vẫn luôn có một động lực giúp họ vượt qua, đó là tình yêu gia đình, vợ chồng, con cái, niềm hi vọng vào tương lai phía trước.Đó là vẻ đẹp của con người Việt Nam mà Mai Văn Phấn gọi đó là “căn tính”,dân tộc tính cao đẹp.
Còn qua “Người con gái thủy thần”,Nguyễn Huy Thiệp đặt câu chuyện trong tương quan qua lại giữa bà cụ và cậu bé.Câu chuyện hầu hết được thuật lại qua hành động,lời nói của các nhân vật.Nhà văn vẫn có sử dụng đôi chút lời độc thoại nội tâm góp phần cho câu chuyện thêm chân thực,chân thành và tạo nên chân lí muôn thời.Cùng với đó,vẻ đẹp của nhân vật cũng tô đậm thêm lòng yêu thương,biết trân trọng quá khứ,đặt niềm tin yêu vào cuộc sống này.Dù trong tận cùng khốn khổ họ vẫn thương yêu nhau. Ngôn ngữ đối thoại gần với lời ăn tiếng nói đời thường, ngôn ngữ độc thoại chân chất mộc mạc đúng với bản chất của người bình dân mà Nguyễn Huy Thiệp đã miêu tả.
Như vậy,có thể thấy rằng hai đoạn trích đến thực sự tiêu biểu cho cái tạng riêng của mỗi nhà văn qua từng thời kì khác nhau.Nếu như Nguyễn Minh Châu viết “Nhành mai” trước năm 1975 thì Nguyễn Huy Thiệp cho ra đời “Con gái thủy thần” sau đó.Đó chính là lí do tạo nên sự độc đáo khác biệt cho mỗi nhà văn,mỗi tác phẩm.Nguyễn Minh Châu ca ngợi sự dũng cảm,bất khuất của con người trong thời chiến thì Nguyễn Huy Thiệp quay trở về đời tư thế sự,quan sát và miêu tả những nét tính cách quen thuộc trong cuộc sống đời thời của con người chúng ta.
Đúng như nhà phê bình Chu Văn Sơn từng chia sẻ “Văn chương cho ta sống về phía khác của cuộc đời”.Hai nhà văn,hai đoạn trích đã cho ta trải nghiệm tầng sâu của cuộc sống,vỡ lẽ ra những điều sâu sa về cuộc đời và con người.Nhành mai của Nguyễn Minh Châu cho ta sống một thời oanh liệt chiến tranh oai hùng.Để từ đó,trong thời bình người ta mới xót thương và biết ơn những người đã làm nên đất nước.Cũng từ những con chữ biết nói,nó lay động ta lòng yêu nước,cống hiến hết mình để phát triển Tổ quốc thân yêu.Còn nhân vật “tôi” nói riêng của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp như một gáo nước lạnh dội vào giấc mộng đẹp đẽ chấp chới của mỗi chúng ta về cuộc đời và con người,thức tỉnh con người ta về lẽ sống cao cả.Chúng ta không thể cầu toàn về một cuộc sống đẹp như cổ tích cũng như không thể làm cho dòng sông ngừng chảy.Tiếng lòng của nhà văn đã cho ta hiểu về mối quan hệ giữa thực tế và tâm tưởng.Từ đó,ta sẽ có cái nhìn khác về đời sống,sống sao cho khỏi sống hoài sống phí,tận dụng được cơ hội để thể hiện giá trị của bản thân.
Như thế,Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp đã xây dựng thành công các nhân vật trong truyện ngắn của mình với những phẩm chất,tính cách đáng nể phục,trân trọng.Nhân vật ấy chính là hình tượng để nhà văn kí thác tư tưởng và bộc lộ tài năng nghệ thuật của mình.Đó cũng là hiện thân của con người trong văn chương,để bạn đọc có thể “nhìn ra thế giới” và rồi hiểu về chính mình,về cuộc đời,về con người.