Đọc 2 văn bản (đoạn văn bản) sau:
Văn bản 1: (Lược đoạn mở đầu: Mẹ mất khi Đăng mới hai tuổi, bố đi lấy vợ khác. Đăng ở với ông bà ngoại)
…Đến bảy tuổi, Đăng chỉ quanh quẩn trong nhà. Nó ở với toàn người lớn. Người lớn không hiểu nó. Nó luôn cảm thấy tủi thân. Tóm lại là không thể bằng mẹ. Mẹ thì khác, dĩ nhiên rồi. Mẹ là hình ảnh tuyệt diệu, nó không hình dung là sẽ thế nào, nhưng rõ ràng nó cảm nhận được. Trong số bạn bè ít ỏi của Đăng có Thu. Thu bảy tuổi, có bố mẹ, có cả em nữa. ở trong hoàn cảnh như thế nên ý nghĩ và tình cảm của Thu khác nó.
Thu hồn nhiên và khá tự do. Nó có thể đi chơi mà chẳng cần phải định giờ về. Nó khác Đăng. Đăng bị một loạt qui định kìm giữ. Ông bà ngoại Đăng luôn luôn căng thẳng trong trách nhiệm với đứa cháu mình. Từ việc chơi với Thu, điều này thật vô hại mà ông bà cũng đe nẹt, cấm đoán nó. Thu có đôi tai hồng và đôi mắt đen nháy. Không hiểu sao Đăng rất thích được ve vuất đôi tai hồng ấy và nhìn sâu vào đôi mắt đen nháy ấy. Mày nhìn như nuốt tao ấy. Mày tìm cái gì ở đấy
Đăng bối rối. ừ, nếu là mẹ thì chắc cũng có đôi mắt như vậy. Không thể khác được.
– Không, tao không tìm gì cả. – Nó đánh trống lảng. – Này, mày có hay khóc không?
– Thỉnh thoảng. Phải có cái gì mới khóc chứ. Ai lại tự nhiên đi khóc bao giờ?
Thế mà thỉnh thoảng tao lại tự nhiên khóc đấy – Đăng nói. Nó cố ngẫm nghĩ xem có lần nào nó tự nhiên khóc không?
– Đấy là hồn của mẹ mày. – Thu nghiêm trang nói. Nó đã nghe đến chuyện người ta gọi hồn. – Hồn mẹ mày về bảo: “Này Đăng, con khóc đi, khóc đi cho vơi nỗi buồn… ” – Nỗi buồn là gì? – Đăng hỏi. – Không biết, nhưng nó cũng giống như đánh mất cái gì. Hôm qua tao đánh mất cái cặp tóc, thế là tao buồn….
Vào lớp một, Đăng và Thu ngồi cùng một bàn. Với sự tiếp nhận thế giới xung quanh, Đăng luôn luôn cảm thấy thua kém Thu nhiều mặt. Thu dễ hòa hợp với bè bạn hơn. Nhận thức bài học cũng vậy Thu nhận thức nhanh hơn. Vô hình chung, Đăng cảm thấy có sự lệ thuộc nào đấy vào bạn. Một cách không tự giác, Thu như chỗ dựa cho Đăng về mặt tinh thần. Thu đứng ra bảo vệ cho Đăng trước các địch thủ trong lớp, nó nhắc nhở Đăng trong việc chuẩn bị bài vở. Cho đến lúc nào đó, Thu còn như lạm dụng vai trò của nó với Đăng. Bạn bè trong lớp đã chế giễu chúng:
– Cái Thu là mẹ, Thằng Đăng là con! Cái gì thằng Đăng cũng đều hỏi mẹ! Những lời như thế đầu tiên làm Đăng phẫn nộ.
Sau đó quen đi, một phần cũng do bản tính thụ động. Dần dà trong ý thức, Đăng có sự nể vì đặc biệt đối với Thu, sự nể vì đáng lẽ dùng cho người lớn. Thu rất tự hào về vai trò của nó đối với bạn. Nó nói với Đăng:
– Tao là mẹ mày! Thật đấy! Chúng nó nói không sai đâu!
Đăng cười bối rối, nó không tin Thu có thể trở thành mẹ. – Tuy thế, nó không bác lại. Thật ra, nó cần có mẹ.
(…)
Ông bà ngoại Đăng thương chiều nó. Nó là của quý. Những thói hư tật xấu của nó thường bị ông bà nó đổ lỗi cho Thu. Tính lông bông ương bướng, thói giễu cợt, sự lười nhác, thậm chí cả việc chậm hiểu của đầu óc nó cũng do bạn nó. Đăng biết ông bà ngoại nó nhầm. Càng lớn lên nó càng bướng bỉnh, càng cô đơn và càng nhạy cảm hơn về thân phận côi cút của mình.
Một bữa, Đăng đánh vỡ tan ông Phúc trong bộ Tam Đa bằng sứ. Bà ngoại tiếc của mắng nó: – Đồ hậu đậu. Tất cả là từ cái con mẹ Thu nhãi ranh của mày. Đăng trào nước mắt, nó uất ức, tủi cực. Nó trốn xuống bếp ngồi trong bóng tối và tức tưởi khóc. Trên nhà bà ngoại của Đăng vẫn đang điên cuồng gào thét. Có tiếng tầu điện sầm sập chạy nhanh ngoài phố. Bỗng ý nghĩ về cái chết bật ra rất nhanh trong Đăng. Đúng rồi! Ngã xuống dưới đường ray! Cái khối sắt đồ sộ lướt qua và thế là hết. Chẳng phải làm gì, chẳng phải nghĩ ngợi. Mười phút nữa sẽ có chuyến tầu đi qua. Điều cần nhất là báo cho Thu. Nó là bạn tốt. Nó cắt nghĩa được cái chết. Ông Phúc trong bộ Tam Đa bằng sứ có nghĩa lý gì? Phúc-Lộc -Thọ có nghĩa lý gì? Đăng len lén mở cửa rồi chạy ra đường. Cái tầu điện cách ba trăm mét. Thu đứng ở vệ đường.
– Mày sao thế? – Thu ngơ ngác.
Đăng chấp chói. Mặt nó tái đi không còn thần sắc. Cái tầu điện lướt qua. – Tròi ơi – Thu đẩy Đăng ra rồi ngã vật xuống.
Nó ngất đi….
Đăng không chết, vì do Thu đẩy ngã. Còn Thu lại bị tàu điện cán gẫy nát chân. Người ta đưa cả hai đứa đi viện. Đăng sốt cao, suốt đêm cứ vật vã nói mê liên hồi:
– Mẹ… mẹ… mẹ… mẹ…
Tiếng “mẹ” của nó như tiếng gió thổi ở ngoài đầu hồi. (…)
(Trích truyện ngắn Tâm hồn mẹ, Nguyễn Huy Thiệp, https://isach.info/story.php?)
Văn bản 2 (Lược một đoạn: Mẹ mất , vì muốn giữ lại chút kỉ vật của mẹ nên Tân đã đem theo chiếc rương mẹ hay giữ bên mình trở về biệt thự. Tân sai người làm mở khóa rương, thì chỉ nhìn thấy thư từ và giấy má đã úa vàng, quyển an bom, những bức ảnh kỉ niệm của gia đình. Nhưng Tân đặc biệt chú ý đến những bức thư mẹ viết cho Nghĩa- người con trai út của gia đình tham gia bộ đội bao năm vẫn bặt vô âm tín. Những bức thư mẹ gửi cho Nghĩa đều bị trả về…)
“ Sang Tiệp tròn một năm, Tân được thư của mẹ báo tin Nghĩa vào bộ đội. Nhận giấy gọi vào Bách khoa trước giấy gọi nhập ngũ vậy mà Nghĩa nhất định không nghe theo lời bàn của cha mẹ. Cái thằng ấy tính nó như thế từ bé. Tân không nhớ cụ thể chỉ nhớ là từ bé Nghĩa đã sinh nhiều rắc rối cho gia đình. Khác với các anh chị, Nghĩa thường xuyên trái ý cha. Ông rất hiền, rất trầm tính, nên có lúc nào ông bực dọc, ông nổi cáu có thể biết ngay là vì thằng Nghĩa. Như trong lá thư của mẹ gửi Tân, thì việc Nghĩa khăng khăng khước từ giấy gọi đại học đã khiến hai cha con xung khắc đến mãi tận hôm Nghĩa lên đường. Mẹ thì tất nhiên là thương xót hết mực thằng con út không có được đường đời dễ dàng êm thấm như các anh chị của nó. Bà cho Tân số hòm thư của Nghĩa và hối thúc anh viết ngay gửi sớm để em nó mừng. Bà kể là đã lên thăm Nghĩa ở trại luyện tân binh trên Bãi Nai-Hòa Bình, thấy nó vất vả, gian khổ, thương lắm. Hồi đó, đọc biết thế, nhưng bây giờ mở xem lá thư mẹ viết cho Nghĩa mới thấy thấu cái tình thương xót của mẹ đối với nó.
“Người ta bảo là ở rừng thì dù nhọc mệt thế nào cũng chớ có ngủ trưa, vì bị ngã nước đấy con ạ. Hại sức lắm, mà mẹ thì ở xa chẳng lo được cho con… Mẹ lại thường hay nghĩ đến cái tính liều của con. Con ơi, có báo động dù chưa tiếng tàu bay vẫn phải tăng xê xuống ngay. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Thương mẹ thương cha con phải tự thương xót lấy mình con nhé…” “Chỗ quà này mẹ gói ra hai màu để con phân biệt. Gói bọc giấy xanh là kẹo, bánh, thuốc lá thì con mời anh em bè bạn với cấp chỉ huy. Riêng thuốc lá mẹ mong con hút ít. Nghe nói nơi các con đóng binh người dân tộc nấu rượu sắn nhiều lắm, mẹ lo. Uống rượu, hút thuốc hỏng đời con ạ. Còn trong gói đỏ là kim chỉ, đá lửa, pin, cặp ba lá, con phải cất kỹ. Các thức ấy không vặt vãnh đâu, ở Hà Nội đã khó kiếm, trong Khu Bốn với bên Lào lại càng quí báu. Nặng thêm một chút nhưng con gắng mang. Phòng khi ốm đau cảm cúng, nhất là chẳng may mà sốt rét thì đem đổi lấy thịt thà rau quả mà bồi dưỡng cho chóng lại. Mấy bà trong khối phố có con đi bộ đội trước con họ bày kinh nghiệm cho mẹ như thế…”
Tân không hiểu gói quà ấy có đến tay Nghĩa không, bởi rõ ràng tất cả những phong thư anh đang thấy đây mẹ anh đều đã gửi lên Lương Sơn khi mà đơn vị của Nghĩa đã rời đi. Tất cả đều bị gửi ngược về hoàn trả, nhưng mẹ vẫn nhẫn nại viết và nhẫn nại gửi cầu may tới cái hòm thư đã hoang phế đó. Mấy bức đầu mẹ anh viết ngắn như là viết vội để gửi đi gấp. Không viết gì nhiều, những thư ấy chỉ hối Nghĩa mau biên thư về cho cha mẹ hay số hòm thư mới với lại hiện đang ở đâu, sức khỏe thế nào. Nhưng theo dần năm tháng chiến tranh, thư của mẹ ngày một nhiều trang hơn và ngày một buồn bã hơn. Gửi đi bao nhiêu nhận lại bấy nhiêu, những lá thư của mẹ càng về sau càng như nhật ký, như là để gửi tới chính mình. Chữ mẹ nắn nót, dễ đọc dẫu màu mực đã phai, dòng nối dòng đều đều, miên man che giấu niềm vô vọng. Mẹ kể rằng đêm qua mẹ nhìn thấy Nghĩa nhưng chưa kịp gọi thì đã tỉnh, tỉnh dậy thì đã chẳng còn lại gì, chẳng níu giữ được gì nữa cả, trong phòng tối đen, ngoài trời còi báo động hú vang.
(Lược một đoạn: Cha Tân không nói thương Nghĩa nhưng qua từng hành động đối với những người lính bất chợt gặp, qua những ngày cha ốm, qua tiếng gọi Nghĩa ơi trước lúc cha mất, Tân nhận ra cha mình rất thương Nghĩa… Trong những lá thư mẹ gửi ra nước ngoài Tân không thấy mẹ nhắc đến những nhớ thương, đau đớn, lo lắng của cha mẹ trước hiện thực chiến tranh nhưng sau này khi đọc lại những lá thư mẹ gửi cho Nghĩa, Tân thấy điều đó)
Nghĩa ơi. Tiếng gọi ấy là lời cuối của lá thư cuối cùng mẹ của Tân viết gửi người con trai út. Không còn lá thư nào viết vào những ngày tháng sau đó nữa. Có lẽ vì sau đó là năm 73, hòa bình. Anh chị em Tân lần lượt đỗ đạt trở về.
Có những người con sáng giá như anh chị em Tân, mẹ là một bà mẹ hạnh phúc hơn bao bà mẹ khác. Nào ngờ mẹ không hề biết thế là hạnh phúc. Gương mặt mẹ suốt bao năm trời đến tận khi nhắm mắt xuôi tay luôn lẳng lặng một vẻ chờ đợi âm thầm, rụt rè và vô vọng. May thay, cũng giống như những bức thư mãi mãi ở yên dưới đáy rương bên đầu giường mẹ, nỗi đau lòng của mẹ không bao giờ thốt nên lời, người ta không biết tới. Nông nỗi thương tâm bất động của một người già có cái đáng quí là không làm ai phải để ý, bởi để ý tới thì không khỏi đau thắt trong lòng và không sao mà có thể bình tâm để yên ổn sống một cách dễ chịu cho nổi.”
https://isach.info/story.php?story=nhung_truyen_ngan__bao_ninh&chapter=0001
Anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 600 chữ) so sánh về nội dung và nghệ thuật của 2 văn bản trên.
Chú thích:
– Tác giả Nguyễn Huy Thiệp (1950- 2021): Nhà văn đương đại Việt Nam nổi tiếng với các thể loại truyện ngắn, kịch, tiểu thuyết, phê bình văn học. Với ngòi bút đầy bản lĩnh và tài năng sáng tạo, giọng văn lạnh lùng, không sắc thái biểu cảm, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã làm một cuộc cách mạng trong tư duy nghệ thuật so với truyền thống. Những tác phẩm của ông mang lại cho bạn đọc một cảm giác vừa thân quen, vừa lạ lẫm, vừa truyền thống, vừa hiện đại. Nét cá tính và phóng khoáng, không bị gò bó bởi khuôn mẫu đã khiến cho văn chương của ông có sức hút một cách kỳ lạ, khó có thể diễn tả. Điều đó cho thấy ông không chỉ bao quát cuộc sống, không chỉ xoáy vào nhiều đề tài mà còn mở ra một phong cách mới của văn học Việt Nam hiện đại. Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện khá muộn trên văn đàn (1986) nhưng được coi là người đạt đỉnh cao nghệ thuật của truyện ngắn[3] với một loạt tác phẩm như: Tướng về hưu, Không có vua, Tuổi 20 yêu dấu, Những ngọn gió Hua Tát, Những người thợ xẻ, Chảy đi sông ơi, Con gái thủy thần, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết…
– Tác giả Bảo Ninh tên thật: Hoàng Ấu Phương. Quê: xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Nhà văn quân đội, từng trực tiếp tham gia chiến đấu trên chiến trường miền Nam trước năm 1975 – chuyên viết về đề tài về chiến tranh. Bảo Ninh quan niệm đã viết văn là phải có vốn văn hóa, hiểu biết sâu, phải có khả năng tìm tòi khám phá để nhận ra viên ngọc quý lấp lánh bên trong. Một số tác phẩm chính: Trại bảy chú lùn (Xuất bản năm 1987), Khắc dấu mạn thuyền, “Bội phản” trong tập “Văn Mới”, Bí ẩn của làn nước
……………Hết …………………
Dàn ý
1.Mở bài:
– Dẫn dắt lí luận văn học để đề cao vai trò của văn học trong cuộc sống con người: M. Gorki – “Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí”.
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm và yêu cầu của đề bài: Tác giả Nguyễn Quang Thiều và Bảo Ninh đã khẳng định mối quan hệ giữa hiện thực và văn chương qua hai truyện ngắn Tâm hồn mẹ (Nguyễn Quang Thiều) và Gọi con (Bảo Ninh). Hai tác phẩm đã hấp dẫn người đọc bởi những điểm tương đồng và khác biệt trong nội dung và nghệ thuật.
2.Thân bài:
a.Luận điểm 1: Giới thiệu chung về 2 tác giả, tác phẩm
– Nguyễn Huy Thiệp (1950- 2021) là nhà văn đương đại Việt Nam nổi tiếng với các thể loại truyện ngắn, kịch, tiểu thuyết, phê bình văn học. Với ngòi bút đầy bản lĩnh và tài năng sáng tạo, giọng văn lạnh lùng, không sắc thái biểu cảm, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã làm một cuộc cách mạng trong tư duy nghệ thuật so với truyền thống. Những tác phẩm của ông mang lại cho bạn đọc một cảm giác vừa thân quen, vừa lạ lẫm, vừa truyền thống, vừa hiện đại, bộc lộ cá tính và phóng khoáng trong tâm hồn người cầm bút. Điều đó đã khiến cho văn chương của ông có sức hút một cách kỳ lạ, khó có thể diễn tả. Nguyễn Huy Thiệp để lại cho văn học Việt Nam một số tác phẩm tiêu biểu: Tướng về hưu, Không có vua, Tuổi 20 yêu dấu, Những ngọn gió Hua Tát, Những người thợ xẻ, Chảy đi sông ơi, Con gái thủy thần, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Tâm hồn mẹ…
– Bảo Ninh là nhà văn quân đội, từng trực tiếp tham gia chiến đấu trên chiến trường miền Nam trước năm 1975 – chuyên viết về đề tài về chiến tranh. Bảo Ninh quan niệm đã viết văn là phải có vốn văn hóa, hiểu biết sâu, phải có khả năng tìm tòi khám phá để nhận ra viên ngọc quý lấp lánh bên trong. Có thể kể tới những tác phẩm tiêu biểu của ông như: Trại bảy chú lùn (Xuất bản năm 1987), Khắc dấu mạn thuyền, “Bội phản” trong tập “Văn Mới”, Bí ẩn của làn nước, Gọi con…
b.Luận điểm 2: Phân tích điểm tương đồng về nội dung và nghệ thuật
– Điểm tương đồng về nội dung: Hai tác phẩm đều viết về tình mẫu tử. Dù được nhìn ở những điểm nhìn khác nhau nhưng vẫn gợi lên những rung động sâu sắc trong lòng người đọc
– Điểm tương đồng về nghệ thuật:
+ Chủ đề của hai tác phẩm được thể hiện bằng hình thức truyện ngắn, ngắn gọn, súc tích. Hệ thống ngôn ngữ giản dị, hiện đại có khả năng tái hiện thế giới nội tâm nhân vật.
+ Hệ thống điểm nhìn đa dạng gắn với người kể chuyện ở ngôi thứ 3 đã tạo nên thành công riêng cho hai tác phẩm. Điểm nhìn độc đáo, kết hợp cùng kiểu lời nửa trực tiếp đã tạo nên thành công cho hai tác phẩm.
c.Luận điểm 3: Phân tích điểm khác biệt của hai tác phẩm
– Tác phẩm “Tâm hồn mẹ”
+ Câu chuyện thể hiện tình mẫu tử thông qua nhân vật một cậu bé mất mẹ tên Đăng. Nhà văn xây dựng nhân vật bằng lời trần thuật ở hiện tại và những dòng hồi ức, những tâm tưởng, suy tư của nhân vật.
+ Tác phẩm sử dụng lời kể độc đáo, lời đối thoại thể hiện tâm lí, tính cách của nhân vật Đăng, nhân vật Thu. Lời nửa trực tiếp bộc lộ chân thực, khách quan những suy tư ẩn sâu trong tâm hồn cậu bé bị tổn thương với những mất mát khó có thể chia sẻ cùng người khác.
+ Trong tác phẩm nhà văn thể hiện những góc khuất trong tâm hồn của những đứa trẻ mất mẹ, những khác biệt trong cách giáo dục của những thế hệ khác nhau. Từ đó, đề cao tình yêu thương, sự cảm thông thấu hiểu trong hành trình giáo dục.
– Tác phẩm “Gọi con”
+ Tình mẫu tử được thể hiện qua cách kiến tạo truyện kể với tình huống truyện độc đáo: khi Tân nhận được những kỉ vật của mẹ mình, trong những kỉ vật đó có những bức thư người mẹ gửi cho Nghĩa – em trai Tân.
+ Chủ đề không xuất hiện nhiều qua lời của người kể mà dường như người kể hòa vào Tân để tái hiện hình ảnh người mẹ qua những bức thư. Đó là người mẹ với những yêu thương, lo lắng, thấu hiều. Người mẹ luôn mang trong mình sự trăn trở, nỗi đau khi một đứa con không thể trở về sau chiến tranh.
+ Trong tác phẩm, Bảo Ninh thể hiện sự đồng cảm với những con người liên quan tới chiến tranh, tái hiện những hậu quả của chiến tranh ở một góc nhìn độc đáo, đồng thời cũng đề cao sự hi sinh của con người trong chiến tranh.
Nhận xét, lí giải sự khác biệt
– Nhận xét chung về hai tác phẩm: thể hiện chủ đề theo những cách riêng và truyền tải tới người đọc những suy tư sâu sắc về hiện thực cuộc đời.
– Lí giải sự khác biệt: Sự khác biệt trong hai tác phẩm được tạo nên bởi phong cách nghệ thuật riêng, độc đáo của hai nhà văn. Đó là thứ “vân chữ không trộn lẫn” tạo nên sự đa dạng về cách viết trong văn học Việt Nam.
3.Kết bài:
– Lí luận văn học: M.Gorki đã đề cao vai trò của người nghệ sĩ với quan điểm: “Nghệ sĩ là con người biết khai thác những ấn tượng riêng – chủ quan – của mình, tìm thấy trong những ấn tượng đó cái có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng ấy có được hình thức riêng”.
-Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu. hai tác phẩm đã phản ánh thế giới quan của nhà văn Nguyễn Quang Thiều và Bảo Ninh, đó là hiện thực đời sống ở một góc nhìn riêng biệt và đem đến ấn tượng, xúc động thẩm mĩ mới mẻ cho người đọc
– Rút ra bài học cho bản thân: Cảm nhận bằng những tri thức cá nhân với những rung cảm chân thành để tác phẩm sống mãi trong lòng bạn đọc.
Bài văn mẫu
Gorki từng khẳng định – “Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí”. Nhận định trên đã đề cao vai trò của văn học trong đời sống con người. Đến với văn học, người đọc không chỉ khám phá hiện thực cuộc đời mà còn khám phá những thông điệp, những chân lí dưới góc nhìn của nhà văn trong mỗi tác phẩm rồi từ đó nhìn nhận lại chính mình. Tác giả Nguyễn Quang Thiều và Bảo Ninh đã khẳng định mối quan hệ giữa hiện thực và văn chương qua hai truyện ngắn Tâm hồn mẹ (Nguyễn Quang Thiều) và Gọi con (Bảo Ninh). Hai tác phẩm đã thể hiện những nét tương đồng và khác biệt về nội dung và nghệ thuật của hai tác giả trong hành trình khai phá hiện thực.
Hiện thực vĩnh viễn là thiên đường của những cây bút vĩ đại, là chất “vàng mười” của văn chương. Đến với hiện thực cuộc đời, mỗi nhà văn chọn cho mình một hướng đi riêng để làm nên tên tuổi của mình. Tác giả Nguyễn Quag Thiều góp mặt trong nền văn học Việt Nam với ngòi bút đầy bản lĩnh và tài năng sáng tạo, giọng văn lạnh lùng, không sắc thái biểu cảm, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã làm một cuộc cách mạng trong tư duy nghệ thuật so với truyền thống. Những tác phẩm của ông mang lại cho bạn đọc một cảm giác vừa thân quen, vừa lạ lẫm, vừa truyền thống, vừa hiện đại, bộc lộ cá tính và phóng khoáng trong tâm hồn người cầm bút. Điều đó đã khiến cho văn chương của ông có sức hút một cách kỳ lạ, khó có thể diễn tả. Nguyễn Huy Thiệp để lại cho văn học Việt Nam một số tác phẩm tiêu biểu: Tướng về hưu, Không có vua, Tuổi 20 yêu dấu, Những ngọn gió Hua Tát, Những người thợ xẻ, Chảy đi sông ơi, Con gái thủy thần, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Tâm hồn mẹ… Bên cạnh đó, tác giả Bảo Ninh xuất hiện với tư cách nhà văn quân đội – từng trực tiếp tham gia chiến đấu trên chiến trường miền Nam trước năm 1975 – chuyên viết về đề tài về chiến tranh. Bảo Ninh quan niệm đã viết văn là phải có vốn văn hóa, hiểu biết sâu, phải có khả năng tìm tòi khám phá để nhận ra viên ngọc quý lấp lánh bên trong. Có thể kể tới những tác phẩm tiêu biểu của ông như: Trại bảy chú lùn (Xuất bản năm 1987), Khắc dấu mạn thuyền, “Bội phản” trong tập “Văn Mới”, Bí ẩn của làn nước, Gọi con…Tác phẩm Tâm hồn mẹ và Gọi con là hai tác phẩm là minh chứng cho tài năng và phong cách sáng tác độc đáo của A và B
Hai tác phẩm hiện lên trước hết với những điểm tương đồng có thể nhận thấy rõ. Với mong muốn phản ánh hiện thực và đề cao giá trị của con người, Nguyễn Quang Thiều và Bảo Ninh đã lựa chọn chủ đề độc đáo cho tác phẩm của mình. Cùng viết về tình mẫu tử, hai tác giả đã mượn hình thức của truyện ngắn, cô đọng, xúc tích với lượng nhân vật ít để thể hiện và truyền tải những thông điệp sâu sắc tới người đọc. Chủ đề tình mẫu tử hiện lên qua cách hai nhà văn xây dựng nhân vật trung tâm của tác phẩm, với sự xuất hiện của những nhân vật như Đăng, Tân, người mẹ, Thu nhà văn đã triển khai cau chuyện với những sự kiện, chi tiết làm nên sự hấp dẫn riêng trong lòng người đọc. Sự hiện diện của chủ đề trong hai tác phẩm đã thể hiện quan niệm nghệ thuật gắn với hiện thực cuộc sống của hai nhà văn, đồng thời chủ đề cũng mở ra cho người đọc một góc nhìn mới về hiện thực để từ đó khám phá thông điệp nhân văn sâu sắc.
Điểm tương đồng trong hai tác phẩm Tâm hồn mẹ và Gọi con còn hiện hữu trong yếu tố nghệ thuật. Trước hết hai tác phẩm đều xuất hiện người kể chuyện ở ngôi thứ 3. Với bất kỳ một truyện kể nào, người kể chuyện đồng thời đảm nhiệm hai vai trò: vai trò giới thiệu và dẫn dắt câu chuyện và vai trò điều khiển. Không một truyện kể nào có thể tồn tại nếu thiếu người kể chuyện. Ngôi kể thứ ba trong hai văn bản giúp nhà văn tạo nên cái nhìn khách quan, trung thực về hiện thực cuộc sống, giúp người đọc khám phá câu chuyện ở nhiều góc nhìn và tạo nên sự hấp dẫn cho truyện kể. Làm nên sự thành công của hai tác phẩm còn phải kể tới hệ thống điểm nhìn đa dạng. Hai tác phẩm đều quan sát và tái hiện hiện thực từ nhiều góc nhìn, trong đó nhà văn đã xây dựng góc nhìn chính là góc nhìn của nhân vật trung Tâm. Với góc nhìn của Đăng, của Tân kết hợp cùng nhiều góc nhìn khác nhau trong tác phẩm như điểm nhìn bên trong, điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn gắn với tâm lí, tình cảm của nhân vật đã giúp câu chuyện hiện lên khách quan trung thực. Người kể chuyện đứng ngoài quan sát để thấy được tình mẫu tử ở mỗi nhân vật trong mỗi tác phẩm hiện lên một cách đầy đủ, thấy sự chuyển biến trong tâm tư, tình cảm của nhân vật Đăng (Tâm hồn mẹ), nhân vật người mẹ, nhân vật Tân (Gọi con). Với cái nhìn khách quan, giọng kể biến tấu linh hoạt, người kể có khi quan sát, có khi đặt mình vào chính nhân vật để giúp câu chuyện hiện lên cụ thể, và từ đó kéo người đọc đi vào cuộc đối thoại trong văn bản truyện đó. Với sự dịch chuyển điểm nhìn trong văn bản , người trần thuật một mặt cố gắng tách mình ra khỏi diễn biến câu chuyện, mặt khác khi cần thiết thì lại hòa mình vào những nhân vật để khai thác triệt để, phô bày toàn bộ thế giới nội tâm con người.
Bên cạnh điểm chung, tác phẩm 1 và 2 còn chứa đựng những nét riêng, đó là minh chứng cho “vân chữ không trộn lẫn” của mỗi nhà văn trong nền văn học Việt Nam. Nói về hành trình sáng tác văn học và ý nghĩa của một tác phẩm nghệ thuật, L. Tôn – xôi cho rằng: “Một tác phẩm nghệ thuật phải là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đẳng bái ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại.” . Vì thế mỗi tác phẩm văn học ra đời là minh chứng cho nét riêng, độc đáo khi nhà văn khai phá hiện thực và biểu đạt hiện thực bằng một hình thức phù hợp.
Đến với thế giới nghệ thuật nhà văn Nguyễn Quang Thiều xây dựng trong những trang viết ở Tâm hồn mẹ người đọc thấy được sự khéo léo của tác giả khi thể hiện tình mẫu tử qua nhân vật chính là câu bé Đăng – một cậu bé mồ côi mẹ từ sớm, bố đi lấy vợ khác, cậu được ông bà ngoại nuôi dưỡng. Trước hết, nhà văn thể hiện chủ đề qua cách khéo léo xây dựng nhan đề Tâm hồn mẹ gây ấn tượng với bạn đọc. Nhan đề gợi sự liên tưởng, tưởng tượng và sáng tạo ở người đọc, đồng thời hé mở nội dung chính của văn bản để người đọc tò mò, khám phá. Để làm sáng tỏ nội dung của tác phẩm, nhà văn đã xây dựng mạch truyện hấp dẫn. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh cậu bé Đăng đã bảy tuổi, với thế giới nội tâm cô đơn, khao khát được hưởng tình yêu thương từ người mẹ. Mạch truyện tiếp diễn đến sự gặp gỡ của Đăng với người bạn tên Thu, cậu bé dựa dẫm vào Thu, cảm nhận được sự quan tâm, chia sẻ mà mình vẫn mong muốn. Sau đó đến những khúc mắc giữa ông bà và Đăng, khiến cậu bé muốn dừng cuộc đời lại dưới bánh của đoàn tàu. Thu đã cứu Đăng và chịu gãy nát hai châu. Câu chuyện khép lại bằng hình ảnh Đăng chìm trong cơn sốt cao và những tiếng “mẹ” vẫn liên tục được cậu gọi trong lúc mê man. Từ mạch truyện, nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã cung cấp những thông tin cho người đọc khám phá con người của nhân vật, suy tưởng tới tình mẫu tử thiêng liêng, những khao khát nhỏ bé nhưng không bao giờ thành hiện thực trong trái tim những đứa trẻ chịu mất mà và qua mạch truyện người đọc khám phá được những giá trị sâu lắng nhà văn muốn gửi gắm.
Tác phẩm Tâm hồn mẹ còn hấp dẫn người đọc bằng ngôn ngữ trần thuật độc đáo. Ngôn ngữ trần thuật mang đậm chất tự sự đời thường, tự nhiên nhưng hiện đại. Lời của người kể trong tác phẩm có vai trò trần thuật, miêu tả tâm trạng của các nhân vật và thể hiện ý nghĩa qua các sự kiện gắn với Đăng. Lời của người kể chuyện mang theo giọng điệu và ý thức, tình cảm riêng, đó là sự đồng cảm với những cô đơn, trống vắng trong lòng Đăng; đó là sự xót xa khi Đăng không tìm được sự thấu hiểu ở ông bà. Người đọc như thấy nhà văn đang hòa vào nhân vật, cảm nhận thế giới bằng đôi mắt và trái tim của một đứa trẻ chịu nhiều mất mát. Sự xuất hiện lời của người kể chuyện trong tác phẩm giúp nhà văn miêu tả, trần thuật nội dung tác phẩm, giúp đưa ra những phán đoán, đánh giá gợi mở cho người đọc trong quá trình theo dõi mạch truyện. Lời của nhân vật trong tác phẩm là những lời đối thể hiện thế giới nội tâm, tính cách của nhân vật, từ đó giúp người đọc khám phá được ý thức, quan điểm, giọng điệu của chính nhân vật trong mối quan hệ cùng giá trị của tác phẩm. Người đọc có thể thấy nhân vật Đăng với những khao khát cháy bỏng, với nỗi cô đờn, tủi hớn với những giây phút tuyệt vọng, hoặc thấy cô bé Thu với trái tim giàu tình yêu thương và lòng dũng cảm. Đó là điều đặc sắc Nguyễn Quang Thiều đã làm được thông qua hệ thống ngôn ngữ trong tác phẩm.
Cùng viết về tình mẫu tử, Bảo Ninh đã gắn tình mẫu tử vào một hoàn cảnh đặt biệt, đó là chiến tranh với những đau thương, mất mát của dân tộc. Tác phẩm Gọi con được kể lại với ngôi kể thứ 3, qua điểm nhìn chính của nhân vật Tân – một người con. Để tô đậm hiện thực và tạo ấn tượng trong lòng người đọc, Bảo Ninh đã lựa chọn tên gọi ấn tượng để đặt nhan đề cho tác phẩm. Gọi con là gợi dẫn ban đầu khiến người đọc tò mò, khám phá hiện thực trong văn bản, người đọc hình dung tưởng tưởng ở đó là trái tim của một người mẹ đang khao khát đợi chờ, lòng mong mỏi muốn được một lần gặp con của người mẹ. Nhan đề chính là minh chứng cho hành trình lao động nghệ thuật trách nhiệm, sáng tạo của Bảo Ninh. Dấu ấn riêng của nhà văn Bảo Ninh còn hiện hữu qua cách xây dựng mạch truyện hấp dẫn, câu chuyện mở ra khi Tân nhận được những di vật của người mẹ, trong những kỉ vật đó có những bức thư người mẹ gửi cho Nghĩa – người em trai đã tham gia chiến tranh nhưng chưa rõ tin tức từ sau hòa bình. Toàn bộ câu chuyện được tái hiện qua những cảm xúc, suy tư của Tân khi đọc bức thư của mẹ. Kết thúc câu chuyện là chiêm nghiệm của nhà văn về những người mẹ nén nỗi đau vào lòng để sống cùng thực tại. Qua mạch truyện, nhà văn Bảo Ninh đã cung cấp những thông tin cho người đọc khám phá con người của nhân vật, nhìn góc nhìn của tình mẫu tử qua một cuộc chiến và suy tưởng tới những giá trị sâu lắng nhà văn muốn gửi gắm. Cách kiến tạo truyện kể đã thể hiện khả năng sáng tạo và phong cách viết riêng của Bảo Ninh.
Ngôn ngữ trần thuật trong Gọi con là một trong những phương thức thể hiện giọng điệu của người viết. Tô Hoài quan niệm rằng: “Mỗi chữ phải là một hạt ngọc buông xuống những trang bản thảo, hạt ngọc mới nhất của mình tìm được, do phong cách văn chương của mình mà có”. Ngôn ngữ trần thuật trong Gọi con của nhà văn Bảo Ninh chủ yếu là những dòng tâm tư, suy nghĩ của nhân vật Tân, hoặc đó là những dòng thư người mẹ viết cho Nghĩa. Nhà văn đứng từ góc nhìn của nhân vật Tân để hòa vào từng khoảnh khắc, từng dòng hồi tưởng của người mẹ, từ đó thấu hiểu và cảm thông một cách sâu sắc. Ngôn ngữ góp phần tạo nên giọng điệu thiết tha, sâu lắng và từ đó giúp câu chuyện hiện lên chân thực
Phương Lựu đã khẳng định: “Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc”. Mỗi sáng tác văn học đều cần thiết phải có một điểm rất riêng, rất khác mang đậm phong cách cá nhân của chủ thể sáng tạo để có thể khẳng định giá trị, dấu ấn cá nhân trên nền văn đàn bề thế, to lớn và vĩ đại. Qua cách lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn ấn tượng ở hai tác phẩm nhà văn Nguyễn Quang Thiều và Bảo Ninh đã tạo nên lối viết văn riêng với cách khám phá và thể hiện hiện thực khác nhau về tình mẫu tử. Cách lựa chọn và triển khai đề tài là minh chứng cho phong cách nghệ thuật độc đáo và những đóng góp của hai tác giả cho nền văn học Việt Nam hiện đại
Tác giả M.Gorki từng khẳng định điều quan trọng làm nên sự khác biệt của các nhà văn như sau: “các anh hãy học tập tất cả những nhà văn có phong cách điêu luyện, nhưng các anh hãy tìm lấy nốt nhạc lời ca cho riêng mình”. Như vậy người nghệ sĩ phải có một con mắt tinh sắc, một tâm hồn nhạy cảm và một tài năng đã đến độ chín để gửi vào trong tác phẩm giọng nói riêng của mình. Nhà văn không cần một đề tài mới nhưng cần một đôi mắt mới, một trái tim biết rung cảm và một ngòi bút có trách nhiệm với cuộc đời. Bằng cảm quan của người nghệ sĩ, đôi mắt của người nghệ sĩ, tài năng của người nghệ sĩ thế giới được tạo lập không phải một lần. Văn chương chân chính không có những lối mòn và người nghệ sĩ chân chính không bao giờ đi theo con đường của người khác. Qua các tác phẩm, bức tranh hiện thực xã hội không chỉ được tái tạo mà còn được phản ánh sinh động, thể hiện tư tưởng, tình cảm, tài năng của người nghệ sĩ. Đồng thời, người đọc nhận ra những vấn đề lớn lao của thời đại mình, nhận ra những quan điểm nhân sinh sâu sắc về cuộc sống và con người.
M.Gorki đã đề cao vai trò của người nghệ sĩ với quan điểm: “Nghệ sĩ là con người biết khai thác những ấn tượng riêng – chủ quan – của mình, tìm thấy trong những ấn tượng đó cái có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng ấy có được hình thức riêng”. Tác phẩm Tâm hồn mẹ và tác phẩm Gọi con đã phản ánh thế giới quan của nhà văn Nguyễn Quang Thiều và Bảo Ninh, đó là hiện thực đời sống ở một góc nhìn riêng biệt và đem đến ấn tượng, xúc động thẩm mĩ mới mẻ cho người đọc. Qua hai tác phẩm, chúng ta nhận thấy cần phải đề cao trách nhiệm cá nhân với cuộc đời, cần nhận thức đúng vai trò của văn học trong mối quan hệ với hiện thực xã hội, để mỗi tác phẩm văn học có giá trị sẽ không dừng lại ở trang viết cuối.