NLVH về nhận định của Lưu Quý Kỳ “Nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình.”

Đề bài: Lưu Quý Kỳ từng nói: “Nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình.”
Anh/Chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng trải nghiệm văn học của bản thân (thông qua những tác phẩm nằm ngoài chương trình đã học), hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

NLVH về nhận định của Lưu Quý Kỳ “Nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình.”

Dàn ý NLVH về chủ đề: “Nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình.”

MỞ BÀI

– Thơ ca là gì? Đặc trưng của thơ ca so với các thể loại văn học khác.
– Thơ là tiếng nói của cảm xúc, giúp con người bộc lộ tâm tư và kết nối tâm hồn.
– Dẫn câu nói của Lưu Quý Kỳ và khẳng định tính đúng đắn của nhận định.
– Nêu vấn đề nghị luận: Vì sao nhà thơ gửi gắm tâm tình vào thơ? Vì sao người đọc thấy chính mình trong thơ?

Thơ ca là nơi kết tinh những rung động tinh tế nhất của tâm hồn con người. Không giống như văn xuôi hay kịch, thơ mang trong mình sự cô đọng, hàm súc và giàu nhạc tính, giúp người nghệ sĩ bộc lộ những cảm xúc sâu kín nhất. Mỗi bài thơ là một thế giới cảm xúc riêng, nơi tác giả gửi gắm tâm tư của mình và đồng thời mở ra không gian để người đọc soi chiếu chính bản thân.

>>> Xem thêm: Những lỗi sai khi viết bài văn nghị luận văn học 

I. GIẢI THÍCH

– Định nghĩa thơ ca.
– Nhà thơ thể hiện tâm tư, tình cảm qua thơ như thế nào?
– Người đọc khi tiếp nhận thơ sẽ cảm nhận ra sao?
– Rút ra ý nghĩa của câu nói Lưu Quý Kỳ.

II. BÀN LUẬN

1. Vì sao “Nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ”?

– Thơ là tiếng nói của cảm xúc, chỉ xuất hiện khi có những rung động mạnh mẽ.
– Nhà thơ sáng tác với mong muốn bộc lộ và sẻ chia cảm xúc.
– Thơ giúp thể hiện những cung bậc cảm xúc sâu sắc mà lời nói thông thường khó diễn tả.

2. Vì sao “Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình”?

– Thơ ca có tính cá thể hóa nhưng cũng có tính khái quát hóa.
– Cảm xúc của nhà thơ khi đạt đến mức độ khái quát sẽ chạm vào trái tim người đọc.
– Trong quá trình tiếp nhận, người đọc có thể soi chiếu bản thân vào thơ, đồng cảm với tác giả.

III. CHỨNG MINH

Định hướng chứng minh:

– Lựa chọn đoạn thơ tiêu biểu, chứng minh qua hai câu hỏi:
+ Nhà thơ thể hiện tâm tình như thế nào?
+ Người đọc tìm thấy tâm tình của mình ra sao?

Dẫn chứng:
– Phân tích bài thơ “Ánh trăng” (Nguyễn Duy).
– Tâm tình của nhà thơ trong bài thơ.
– Người đọc nhận ra bản thân khi đọc bài thơ.

IV. TỔNG KẾT

– Thơ ca là cầu nối tâm hồn giữa tác giả và độc giả.
– Nhà thơ cần trung thực với cảm xúc, không chạy theo thị hiếu mà đánh mất bản ngã.
– Để thơ ca chạm vào trái tim người đọc, cần sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo.

V. LIÊN HỆ

– Bài học cho nhà thơ trong quá trình sáng tác.
– Bài học cho bạn đọc trong quá trình tiếp nhận.

Thơ ca là cầu nối giữa tâm hồn nhà thơ và người đọc, là nơi con người tìm thấy sự đồng điệu trong những cảm xúc chân thành nhất. Một bài thơ hay không chỉ phản ánh nỗi niềm của người sáng tác mà còn là tấm gương soi tâm hồn của độc giả. Nhận định của Lưu Quý Kỳ đã làm sáng tỏ giá trị cốt lõi của thơ ca: xuất phát từ một trái tim nhưng có thể chạm đến hàng triệu trái tim khác. Đây chính là sức mạnh của thơ – sự gắn kết tâm hồn, làm cho con người gần nhau hơn qua từng câu chữ đầy cảm xúc.

Bài văn mẫu NLVH trình bày suy nghĩ của anh/chị về chủ đề: “Nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình.”

Bài văn mẫu 1

Thơ ca là nghệ thuật ngôn từ, nơi nhà thơ gửi gắm những cảm xúc chân thành nhất của mình. Một bài thơ hay không chỉ phản ánh tâm tư của người sáng tác mà còn có thể khiến người đọc tìm thấy chính mình trong đó. Nhà phê bình Lưu Quý Kỳ từng nhận định: “Nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình.” Nhận định này đã khẳng định bản chất của thơ ca – xuất phát từ cảm xúc cá nhân nhưng có khả năng lay động và đồng cảm với độc giả.

Thơ ca mang tính trữ tình sâu sắc, là tiếng nói của cảm xúc. Nhà thơ khi sáng tác không chỉ viết ra những suy nghĩ của riêng mình mà còn gửi gắm vào đó những trăn trở, niềm vui, nỗi buồn, tình yêu và khát vọng. Những điều ấy, dù mang dấu ấn cá nhân, nhưng nếu đủ chân thành, đủ sâu sắc, sẽ chạm đến tâm hồn người đọc. Một bài thơ hay không chỉ là tác phẩm nghệ thuật mà còn là nơi người đọc tìm thấy sự đồng điệu, sẻ chia.

Bài thơ “Nếu đời anh vắng em” của Xuân Quỳnh thể hiện tình yêu nồng nhiệt, mãnh liệt và đầy lo âu của người phụ nữ. Tình cảm ấy không chỉ là riêng của tác giả mà còn là tiếng lòng chung của những người đang yêu, đang khao khát sự gắn bó trong tình cảm. Khi đọc bài thơ, người ta không chỉ thấy hình ảnh Xuân Quỳnh mà còn nhận ra chính mình trong đó.

Thơ ca còn chạm đến những cảm xúc sâu kín của con người về cuộc đời. Bài thơ “Cát trắng” của Xuân Diệu là một ví dụ. Nhà thơ viết về nỗi cô đơn, sự khát khao yêu thương và hoài bão cháy bỏng của một con người trước cuộc sống. Khi đọc những dòng thơ đầy xúc cảm ấy, độc giả cũng sẽ thấy những nỗi niềm của chính mình, những giấc mơ, khát vọng và cả những nỗi buồn không tên.

Thơ ca có sức mạnh kết nối tâm hồn giữa người sáng tác và người đọc. Để làm được điều đó, người sáng tác phải có cảm xúc chân thật, nghệ thuật biểu đạt tinh tế, còn người đọc cũng cần sự nhạy cảm, biết rung động trước cái đẹp của ngôn từ.

Thơ không chỉ là nơi nhà thơ gửi gắm tâm tình mà còn là tấm gương phản chiếu cảm xúc của độc giả. Một bài thơ hay không chỉ là tiếng lòng của tác giả mà còn phải khiến người đọc cảm nhận được chính mình trong từng câu chữ. Đây chính là giá trị cao đẹp nhất của thơ ca.

Bài văn mẫu 2

Thơ ca ra đời từ những rung động của tâm hồn, là nơi người nghệ sĩ gửi gắm cảm xúc, suy tư về cuộc sống. Thơ không chỉ là tiếng lòng của riêng nhà thơ mà còn có khả năng khơi gợi những cảm xúc tương đồng trong lòng độc giả. Nhà phê bình Lưu Quý Kỳ từng khẳng định: “Nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình.” Nhận định này nhấn mạnh bản chất đặc biệt của thơ ca – xuất phát từ tâm hồn người viết nhưng có thể hòa điệu với tâm hồn người đọc, tạo ra sự đồng cảm sâu sắc.

Khi viết thơ, nhà thơ không chỉ đơn thuần ghi lại những xúc cảm của bản thân mà còn khát khao tìm sự đồng điệu với người đọc. Một bài thơ hay là một bài thơ có khả năng khái quát những cảm xúc mang tính phổ quát, để bất cứ ai cũng có thể nhìn thấy chính mình trong đó.

Bài thơ “Tự hát” của Xuân Quỳnh là một minh chứng cho điều này. Bài thơ bộc lộ tâm tư của một người phụ nữ đang yêu, những lo âu, khát khao hạnh phúc và cả nỗi sợ hãi mất đi tình yêu. Những ai đã từng yêu đều có thể tìm thấy chính mình trong từng câu chữ của bài thơ, bởi tình yêu luôn đi kèm với những xúc cảm ấy.

Thơ ca còn phản ánh những nỗi niềm chung về cuộc đời. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật viết về những người lính lái xe trong chiến tranh, nhưng tinh thần lạc quan, ý chí kiên cường của họ cũng có thể là động lực cho bất cứ ai đang đối diện với khó khăn. Đọc bài thơ, người ta không chỉ cảm nhận được sự hào hùng của thế hệ đi trước mà còn tìm thấy nguồn động viên cho chính mình.

Một bài thơ thực sự có giá trị khi nó không chỉ là tiếng nói của riêng nhà thơ mà còn là sự đồng vọng trong tâm hồn độc giả. Để đạt được điều đó, nhà thơ cần có tài năng, sự chân thành trong sáng tác, còn người đọc cần mở lòng để cảm nhận và đồng điệu với thơ ca.

Nhận định của Lưu Quý Kỳ đã khẳng định một cách đúng đắn về bản chất của thơ. Thơ không chỉ là tiếng lòng của nhà thơ mà còn là nơi người đọc tìm thấy chính mình, để từ đó cảm nhận, sẻ chia và thấu hiểu cuộc sống sâu sắc hơn.

Bài văn mẫu 3

Thơ ca không chỉ là nghệ thuật ngôn từ mà còn là nơi lưu giữ những xúc cảm chân thật của con người. Thơ có thể xuất phát từ tâm hồn nhà thơ, nhưng khi đến với người đọc, nó lại mang một ý nghĩa mới, trở thành tiếng lòng của những ai đồng cảm với nội dung bài thơ. Nhà phê bình Lưu Quý Kỳ từng nhận xét: “Nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình.” Nhận định này cho thấy khả năng đặc biệt của thơ ca – xuất phát từ cảm xúc cá nhân nhưng lại có sức lan tỏa mạnh mẽ, tạo nên sự đồng điệu trong tâm hồn người đọc.

Một bài thơ hay không chỉ phản ánh tâm tư của nhà thơ mà còn có tính khái quát cao, khiến người đọc cảm thấy như chính mình đang trải nghiệm những cảm xúc đó.

Bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ là một minh chứng rõ ràng. Hình tượng con hổ bị nhốt trong chuồng không chỉ thể hiện nỗi uất hận của loài chúa sơn lâm mà còn gợi lên tâm trạng chung của những con người yêu tự do nhưng bị trói buộc. Người đọc không chỉ thấy con hổ của Thế Lữ mà còn thấy chính mình trong đó – những khát khao, tiếc nuối và ước vọng tự do.

Bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh không chỉ là bức tranh thiên nhiên giản dị mà còn thể hiện tinh thần lạc quan, ung dung của Bác trên con đường gian khổ. Người đọc khi tiếp nhận bài thơ không chỉ cảm nhận được tình cảm của Bác mà còn có thể tìm thấy sự đồng cảm, động viên chính mình trong những lúc khó khăn.

Thơ ca có sức mạnh kết nối tâm hồn bởi nó không chỉ là câu chuyện của riêng nhà thơ mà còn là nơi để người đọc soi chiếu chính mình. Một bài thơ hay là một bài thơ khiến người đọc cảm thấy như đang đọc về cuộc đời mình trong từng câu chữ.

Nhận định của Lưu Quý Kỳ đã thể hiện đúng bản chất của thơ ca. Thơ không chỉ là tiếng nói của riêng nhà thơ mà còn là cầu nối giữa những tâm hồn đồng điệu. Đó chính là sức sống trường tồn của thơ ca trong lòng độc giả.

“Nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình.”

3/5 - (2 bình chọn)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *