ĐỀ LUYỆN 03
Có ý kiến cho rằng: “Nhìn thấy cái khác thường trong cái bình thường và trong cái khác thường nhìn thấy cái bình thường – đó là phẩm chất của những nhà nghệ sĩ đích thực” Anh/ chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua hình tượng người lái đò sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân |
GỢI Ý
MỞ BÀI
– Dẫn dắt
– Nêu vấn đề nghị luận, trích dẫn nhận định
– Giới thiệu Nguyễn Tuân, tùy bút “Người lái đò sông Đà” và hình tượng nhân vật người lái đò
“Than thở lại thở than
Mộc Lan dệt bên cửa
Không nghe tiếng thoi đưa
Chỉ nghe cô than thở”
Người nữ anh hùng Hoa Mộc Lan trong truyền thuyết dân gian đã làm nên sự khác thường từ chính điều bình thường trong cuộc sống để rồi khiến mỗi chúng ta đều cúi đầu cảm phục, ngợi ca. Cuộc sống là thế! Đôi khi cái cao cả khác thường lại ẩn chứa trong chính những điều nhỏ bé đời thường. Và văn chương cũng là thế! Sứ mệnh của người nghệ sĩ đích thực phải là “nhìn thấy cái khác thường trong cái bình thường và trong cái khác thường nhìn thấy cái bình thường”. Trên hành trình sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã không hổ thẹn khi xứng danh “người nghệ sĩ chân chính”, bởi nhà văn đã làm tròn thiên chức cao quý mà văn chương đã lựa chọn và gửi gắm. “Người lái đò sông Đà” là áng văn tiêu biểu cho một đời văn đó. Hình tượng người lái đò trong thiên tùy bút đã chứng minh cho bạn cho tôi thấy rõ phẩm chất của người nghệ sĩ đích thực khi Nguyễn Tuân đã phát hiện ra “cái khác thường trong cái bình thường và trong cái khác thường nhìn thấy cái bình thường”.
THÂN BÀI
* Khái quát chung
– Dẫn dắt: Khi sáng tạo ra thế giới và loài người, Thượng đế đã cất giấu nơi trái tim của mỗi người một sứ mệnh thiêng liêng để con người khám phá, kiếm tìm. Nếu Tô Ngọc Vân đến với cuộc đời mang theo sứ mệnh của người họa sĩ, Trịnh Công Sơn chọn âm nhạc là điểm dừng chân nơi cõi người thì Nguyễn Tuân đã tìm thấy sứ mệnh của riêng mình trong thiên chức “người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”, bởi Nguyễn Tuân có một “đôi mắt” khác lạ khi “nhìn thấy cái khác thường trong cái bình thường và trong cái khác thường nhìn thấy cái bình thường”.
– Giải thích nhận định: Vậy “khác thường” là gì? “bình thường là gì” và vì sao phải “nhìn thấy cái khác thường trong cái bình thường” cũng như “trong cái khác thường nhìn thấy cái bình thường” mới là phẩm chất của người nghệ sĩ đích thực?
+ Chắc hẳn bạn cũng sẽ có cho riêng mình một quan niệm, một cách lí giải độc đáo. Và cá nhân tôi cũng thế. Tôi cho rằng: “khác thường” là cái độc đáo, đặc sắc, mới lạ, “bình thường” là cái vốn có và thường thấy trong cuộc sống, là những điều giản dị, gần gũi với mỗi chúng ta.
+ Thế nhưng điều quan trọng hơn trong cuộc sống nói chung và văn chương nói riêng phải là nhìn thấy những cái độc nhất trong những điều đời nhất. Chỉ khi làm được điều đó, nhà văn mới xứng tầm là “người nghệ sĩ đích thực” – người sáng tạo nghệ thuật chân chính, có tài có tâm, sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật có ý nghĩa.
+ Như vậy, nhận định “Nhìn thấy cái khác thường trong cái bình thường và trong cái khác thường nhìn thấy cái bình thường – đó là phẩm chất của những người nghệ sĩ đích thực” đã thức tỉnh trong ta về vai trò “cái nhìn” của người nghệ sĩ. Người nghệ sĩ chân chính phải là người có khả năng phát hiện ra những cái mới lạ, độc đáo, đặc sắc trong những đề tài, hình tượng, chủ đề tưởng như quen thuộc, bình thường, cũng như làm cho những cái độc đáo, mới lạ trở nên gần gũi, chân thật với cuộc sống và bạn đọc.
+ Nhận định trên có thực sự đúng đắn? Phát hiện ra những cái mới mẻ, độc đáo từ những đề tài quen thuộc là yêu cầu bắt buộc của sáng tạo nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng. Bởi “Cái bình thường là cái chết của nghệ thuật”, người nghệ sĩ không lặp lại người khác và không lặp lại chính mình, mà phải biết “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Chính việc phát hiện ra những điều độc đáo, mới mẻ mới làm nên sức sống cho tác phẩm, mới chiếm lĩnh được trái tim độc giả “Thế giới được tạo lập không phải một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì một lần thế giới được tạo lập”. Bên cạnh đó, người nghệ sĩ cũng cần làm cho những điều phi thường trở nên gần gũi với con người. Bởi nghệ thuật phải “vị nhân sinh”, phải vì con người. Nếu mải mê “với trời cao và bể rộng”, nghệ thuật sẽ quên mất rằng “hoa từ đất mà ra” và sẽ trở thành một “Cửu Trùng Đài” xa hoa tráng lệ nhưng rời xa cuộc sống con người. Như vậy, có thể khẳng định nhận định trên là hoàn toàn đúng đắn. Và hình tượng người lái đò sông Đà trong thiên tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân đã minh chứng cho chúng ta thấy rõ.
– Giới thiệu về Nguyễn Tuân, tùy bút Người lái đò sông Đà, hình tượng người lái đò sông Đà
+ Sau Cách mạng tháng Tám, niềm ưa thích “chủ nghĩa xê dịch” của con người suốt đời đi tìm cái đẹp đã đưa những bước chân phiêu lãng của Nguyễn Tuân ngược lên chốn Tây Bắc mờ sương mà kết duyên văn tự. “Người lái đò sông Đà” là “món nợ tình” mà Nguyễn Tuân ấp ủ, thai nghén sau mười năm gắn bó để rồi được khai sinh vào năm 1958. Tác phẩm được in trong tập tùy bút “Sông Đà”. Có thể nói, “Sông Đà” nói chung và tùy bút “Người lái đò sông Đà” nói riêng cho ta thấy một diện mạo mới mẻ của Nguyễn Tuân, một nhà văn khao khát hòa nhịp với đất nước và cuộc đời, không giống với một Nguyễn Tuân trước Cách mạng chỉ muốn xê dịch cho khuây cảm giác “thiếu quê hương”.
+ Đọc “Người lái đò sông Đà”, người đọc ngỡ ngàng trước một Nguyễn Tuân “ngông ngạo với đời” với cái tôi độc đáo: tài hoa, uyên bác; ngỡ ngàng trước một “đôi mắt” sắc sảo, nhạy bén nhưng cũng rất đỗi trìu mến khi đã “nhìn thấy cái khác thường trong cái bình thường, và trong cái khác thường nhìn thấy cái bình thường” để từ đó tạc vẽ lên một người lái đò sông Đà rất đời và cũng rất độc.
* Phân tích, chứng minh
Luận điểm 1. Người lái đò sông Đà ẩn chứa cái độc đáo, khác thường trong phẩm chất của người lái đò bình thường.
– Cái độc đáo, khác thường trong phẩm chất của người lái đò bình thường là lòng mưu trí, sự dũng cảm; là sự hiểu biết, dày dặn kinh nghiệm; là phẩm chất tài hoa nghệ sĩ mà Nguyễn Tuân gọi là “chất vàng mười đã qua thử lửa”.
– Tác phẩm nghệ thuật nào cũng được xây dựng bằng vật liệu mượn ở thực tại. Và vì thế, thật dễ hiểu khi những “cái bình thường” lại trở thành mạch nguồn cảm hứng của người nghệ sĩ. Người lái đò sông Đà đã từ cuộc đời bước vào trang văn của Nguyễn Tuân một cách giản dị, đời thường đến bất ngờ. Ông lái đò không có tên riêng, chỉ đơn thuần được nhà văn gọi là “người lái đò”, là “ông”. Đó cũng chính là cách gọi tên rất đời theo công việc, độ tuổi, giới tính. Ngoại hình, công việc của ông lái đò cũng giản dị như chính cái tên đó. Ông trạc 70 tuổi, là người Lai Châu, quê ở ngã tư sông sát tỉnh. Ông đã một đời ngược xuôi trên sông Đà “Trên con sông Đà, ông ngược ông xuôi trên 100 lần, chính tay giữ lái độ 60 lần”. Cuộc đời của người lái đò đã in dấu ấn vào giọng nói và dáng hình ông “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh, nhãn giới ông vời vợi như lúc nào cũng mong một cái bến xa xôi… Thế nhưng, nếu chỉ đơn thuần dừng lại ở những điều bình thường như thế, thì Nguyễn Tuân đã không còn là Nguyễn Tuân, một nhà văn với cá tính gói gọn trong một chữ “ngông”.
– Nhà văn đã nhìn thấy một phẩm chất đẹp đẽ khác thường trong người lái đò sông Đà. Và để phác lộ trọn vẹn vẻ đẹp khác thường đó, Nguyễn Tuân đã quyết trí đặt ông lái đò vào một tình huống đầy thử thách: một cuộc chiến không cân sức giữa một bên là sông Đà hung bạo dữ tợn, bao la sóng nước với một bên là ông lão lái đò nhỏ bé đơn độc trên cái thuyền sáu bơi chèo. Nghệ thuật tương phản chính là phép đòn bẩy được nhà văn sử dụng thành công để làm bật lên vẻ đẹp khác thường của ông lái. Cuộc chiến với ba trùng vi thạch trận đã khiến cho những trang tùy bút của Nguyễn Tuân phút chốc trở thành áng văn sử thi hùng tráng và đã khiến cho ông lái đò sông Đà phút chốc trở thành người anh hùng Uylitxo trong sử thi Odixe của Hômero. Ông lão lái đò đã trực diện và chiến đấu với sông Đà quái thú lắm mưu mô, nham hiểm bằng sự mưu trí và lòng dũng cảm của mình. Ông lão lái đò tuy nhỏ bé nhưng lại sừng sững hiên ngang như một viên tướng chỉ huy trí dũng song toàn trước con thủy quái khổng lồ. Ông vẫn vững vàng “hai tay giữ mái chèo” cho thật chắc để khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Ông trực diện đối mặt với sóng nước đà giang mà không chút sợ hãi. Cuộc chiến của ông lão với sóng nước sông Đà như một cuộc tỉ thí giữa các võ sĩ ngang tài ngang sức với nhau “Nước bám lấy thuyền như đô vật túm lấy thắt lưng ông đò”. Sông Đà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân tiếp tục được nhân hóa trở thành một đô vật và ông lão lái đò phút chốc cũng mang dáng vẻ, khí phách của một võ sĩ hạng nặng. Cuộc chiến ấy đầy cam go, ác liệt: sóng nước đòi lật ngửa ông đò ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt…Mặt sông trong tích tắc lòa sáng như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Thế nhưng ông đò “vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi”. Dẫu mặt nước sông Đà đã châm lửa vào đầu sóng thì ông đò vẫn dũng cảm ngoan cường giữ chắc tay lái để vượt qua trùng vây thạch trận. Sông Đà càng nham hiểm, ông đò càng mưu trí. Át lại tiếng sóng nước gào thét là tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Đó là bản tính gan dạ, dũng cảm chỉ có được ở con người tài trí. Không chỉ mưu trí dũng cảm, sự từng trải, hiểu biết và dày dặn kinh nghiệm cũng chính là một vẻ đẹp khác thường mà Nguyễn Tuân nhìn thấy trong ông lái đò đời thường. Để tiếp “ông khách” không vừa này, sông Đà đã dàn bày thạch trận trên sông với một thế trận bài bản theo kiểu binh pháp tôn tử, với các chiến thuật: đánh vu hồi, đánh du kích, đánh mai phục, đánh giáp lá cà…Sông Đà vừa lắm mưu, nhiều kế, nham hiểm và sẵn sàng bóp chết người lái đò. Thế nhưng, ông lão lái đò đã anh dũng như một viên tướng trí dũng song toàn trước con thủy quái khổng lồ với tư thế của kẻ đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông lái đò có một năng lực siêu việt trong nghề nghiệp, bằng cách lấy mắt mà nhớ như đóng đinh vào lòng đất, tất cả những luồng nước của các con thác hiểm trở. Ông đã thuộc lòng quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Sông Đà với ông lão ấy như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Nhà văn khâm phục và ngợi ca ông lái đò bằng những liên tưởng, so sánh đầy văn chương. Cuộc sống của ông lái đò là một bài thơ hào hùng, lãng mạn đến kì lạ. Nguyễn Tuân là thế! Người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp luôn khao khát được khám phá đến tận cùng cái đẹp của thiên nhiên và cái đẹp trong tâm hồn con người. Nguyễn Tuân tâm niệm tài hoa nghệ sĩ không chỉ dành cho những con người làm trong lĩnh vực nghệ thuật, mà bất cứ ai, bất cứ ngành nghề nào nếu tinh thông, uyên bác đều xứng đáng được đứng trong thế giới của con người tài hoa, nghệ sĩ. Và vì thế, nhà văn đã khám phá ra rằng: ông lão lái đò không chỉ là một người lao động sông nước bình thường mà còn là một người lao động nghệ thuật với nghệ thuật chèo đò. Sự thông minh tự tin, anh dũng là chưa đủ mà còn cần là một người nghệ sĩ có nghệ thuật chèo đò điêu luyện mới có thể vượt qua được ghềnh thác đanh ác của đà giang. Chính bởi tay lái của ông đò đã đạt được đỉnh cao của nghệ thuật chèo đò nên ông lão mới chiến thắng được thần sông thần đá. Chúng ta hãy cùng quay trở lại với đoạn phim kí sự của Nguyễn Tuân, nương theo đôi mắt tinh sắc của nhà văn để cảm nhận một vẻ đẹp khác thường của một tay lái ra hoa trên sông Đà: “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy” Với một loạt các động từ “nắm chặt, ghì cương lái, bám chắc, phóng nhanh, lái miết” đâu chỉ khắc họa một người lái đò mà còn khắc họa một nghệ sĩ với cây bút là cán chèo đang thảo những nét trên dòng sông trắng xóa bọt nước. Với hình ảnh “nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi”, ông lái đò mang vẻ đẹp giống như chàng dũng sĩ Võ Tòng tay không bắt hổ. Ông lái đã chinh phục được con hổ nước đầy hung bạo. Ông lái đò còn điêu luyện khi mà “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Đó dường như là những nét thanh nét đậm trên vuông lụa trắng của Huấn Cao thuở nào. Nguyễn Tuân đã miêu tả táo bạo nhưng cũng hết sức chân thực trận chiến của ông lái đò ở vòng vây cuối cùng của thạch trận trên sông Đà. Sự hiểm ác của thác đá được nhà văn miêu tả trong hình ảnh ẩn dụ tài hoa “cổng đá cánh mở cánh khép”. Đó cũng là cả một mặt trận đá trùng điệp trong đó bức tường phòng ngự vững chắc là “bọn đá hậu vệ của con thác” kết hợp với những mũi tấn công ào ạt, tới tấp không ngừng nghỉ của sóng dữ. Nhiệm vụ của ông đò là phải phóng thẳng thuyền chọc thủng một luồng sinh duy nhất ở ngay giữa cửa đá hậu vệ trấn giữ. Trong khoảnh khắc cánh cổng đá mở giữa những đợt sóng dữ dội hình ảnh con thuyền lao vút qua khe hẹp được miêu tả trong những câu văn ngắn mà với cách ngắt câu kết hợp những động từ và danh từ nối tiếp: “vút vút cửa ngoài cửa trong lại cửa trong cùng” đã thể hiện sự điêu luyện khéo léo và sức mạnh của ông đò. Tốc độ phi thường của con thuyền dưới bàn tay vừa lái vừa xuyên được vừa lượn được của ông đò không chỉ gợi qua những động từ giàu sắc thái miêu tả, biểu cảm “vút vút” qua hình ảnh so sánh về một mũi tên tre mà còn gợi tả tinh tế qua làn hơi nước mà con thuyền xuyên qua. Con thuyền không còn lướt trên mặt nước mà thực sự đã bay trong làn hơi nước trên mặt sóng. Tài năng của ông đò khi ấy đã bao hàm được trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh thể lực, trình độ điêu luyện và bản lĩnh kiên cường. Tất cả đều đạt đến độ phi phàm, kì diệu.
Luận điểm 2: Trong những phẩm chất khác thường của người lái đò sông Đà ẩn chứa cái bình thường.
– Trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, có một câu văn thật giản dị nhưng càng ngâm ngợi ta lại càng thấy độc đáo và ý nghĩa. Nam Cao đã viết “Những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành ăn rất ngon”. Nếu “cháo hành” là cái bình thường thì vị ngon của nó sẽ là sự khác thường. Cái khác thường luôn ẩn chứa trong chính điều bình thường. Và phải cần có một đôi mắt tinh tế, một cái tâm nhiệt huyết mới có thể phát hiện ra những điều khác thường đó. Nếu không tài không tâm, không yêu không mến thì sao Nguyễn Tuân có thể nhìn thấy vẻ đẹp khác thường trong hình hài đời thường của người lái đò trên sông nước? Tuy nhiên, xét đến cùng, cái đời thường, cái quen thuộc nhỏ bé mới là cái gốc của vạn vật muôn loài “Cây lớn một ôm khởi sinh từ một cái mầm nhỏ, đài cao chín tầng khởi đầu từ một sọt đất, đi xa ngàn dặm bắt đầu từ một bước chân”. Vì thế, nghệ sĩ chân chính phải luôn “trong cái khác thường nhìn thấy cái bình thường” để đưa những cái độc đáo, mới lạ trở nên gần gũi, chân thật với cuộc sống và con người. Nguyễn Tuân cũng đã làm vẹn tròn thiên chức đó. Những phẩm chất khác thường của một anh hùng lao động trên sông nước, một dũng tướng mưu trí tài ba, một nghệ sĩ tài hoa với nghệ thuật vượt thác ghềnh xét đến cùng, cội rễ của nó đều từ tình yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương đất nước, trách nhiệm với nghề nghiệp của người lái đò – những chân lí giản đơn, quen thuộc của cuộc đời.
– Nguyễn Tuân đã giúp người đọc nhận ra rằng, đằng sau sự mưu trí dũng cảm, sẵn sàng đối mặt với sóng nước đà giang đủ tướng dữ quân tợn ấy là cuộc sống mưu sinh đầy nhọc nhằn, vất vả của người lao động trên sông nước, là sự cần cù trong lao động của những con người trên triền núi sông hùng vĩ của Tổ quốc. Ông lão lái đò là tên gọi chung cho biết bao con người đã chọn “lái đò” làm nghiệp của đời mình. Một nghiệp đời đầy vất vả, nhọc nhằn. Không phải là cái dáng thư sinh nho nhã, lãng tử chiều xuân mà là cái dáng tay “lêu nghêu như cái sào”, cái dáng chân “khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng” mới là cái dáng vẻ “ăn đời ở kiếp” với những con người chọn sông nước để bươn trải. Không những thế, để sống với nghề, để tồn tại trong nghề, họ phải rèn luyện và hình thành cho mình lòng dũng cảm khi đối mặt với những ghềnh sông “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè”, những hút nước sẵn sàng đánh tan xác con thuyền, phải rèn luyện cho mình sự mưu trí khi đối mặt với một thủy quái khổng lồ dữ tợn với tiếng gầm réo ghê sợ nghe như van xin, nghe như khiêu khích bằng giọng gằn mà chế nhạo… Và như vậy, dũng cảm và mưu trí là những phẩm chất đầu tiên, cần có và phải có của những con người một đời ngược xuôi trên sóng nước Đà giang. Nguyễn Tuân cũng giúp chúng ta nhận ra rằng, ẩn đằng sau sự hiểu biết từng trải, dày dặn kinh nghiệm của ông lái còn là sự cần cù, chăm chỉ của một con người yêu lao động. Ông lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, ông đã thuộc cái quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Với ông lái đò, sông Đà là một bản trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc cả những chỗ chấm câu, chấm than và cả những đoạn xuống dòng. Đó là kết quả của hàng trăm lần xuôi ngược trên đà giang, là kết quả của sự chăm chỉ, chịu thương chịu khó của những con người vốn một đời “Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó”. Và hơn hết, ẩn đằng sau phẩm chất tài hoa nghệ sĩ khác thường trong nghệ thuật chèo đò của ông lái là một tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, là sự khiêm nhường trong cuộc sống. Sẽ chẳng thể có được những đường lái chính xác, điêu luyện như “nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy” nếu như không dành trọn tâm lực và trí lực trong từng giây phút vượt sóng nước sông Đà. Nguyễn Tuân là thế! Nhà văn của sự hoàn mỹ! Vì thế, trong từng tiểu tiết của cuộc sống và văn chương, Nguyễn Tuân luôn đòi hỏi một sự chính xác đến tuyệt đối, một tinh thần trách nhiệm cao nhất để làm nên những viên ngọc trai ánh ngời. Và tuyệt vời hơn khi những người nghệ sĩ tài hoa ấy lại là những con người đời thường nhất, khiêm nhường bình dị nhất. Đối với người lái đò, nguy hiểm trên dòng sông cũng chính là một phần trong cuộc sống nên khi vượt qua gian nguy sóng nước lại “xèo xèo” tan trong trí nhớ, sông nước lại thanh bình “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh …mà chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”. Nhà văn như muốn nghỉ ngơi sau một chặng đường dài cùng nhân vật của mình tranh đua tài trí với thiên nhiên song qua giọng văn nhẹ nhàng ta lại thấm thía thêm một nét đẹp của người lái đò đó là sự khiêm nhường bình dị, ung dung bởi vì “ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ…” Cái phi thường đã trở thành cái bình thường, phẩm chất của người anh hùng, phong thái tài tử nghệ sĩ đã hòa quyện với phẩm chất của người lao động trên sông nước giản đơn. Nguyễn Tuân đã giúp chúng ta nhận ra rằng cái gốc của một trí tuệ trác việt, của một tâm hồn tài hoa nghệ sĩ chính là sự khiêm nhường, là niềm hăng say lao động, là tình yêu thiên nhiên, là tình yêu quê hương đất nước, là tình yêu cuộc sống con người – những điều giản dị ẩn chứa trong mỗi chúng ta.
* Mở rộng: Những yếu tố nghệ thuật góp phần thể hiện thành công cái khác thường trong cái bình thường và trong cái khác thường nhìn thấy cái bình thường
– M. Goroki đã từng khẳng định: “Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy những ấn tượng đó có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng đó có những hình thức riêng” vì thế mà “Mỗi tác phẩm nghệ thuật phải là một khám phá về nội dung và phát minh về hình thức”. Để làm nổi hình nổi sắc những cái khác thường trong những điều bình thường, cũng như để nhìn thấy điều bình thường trong những cái khác thường, người nghệ sĩ cần phải có một tài năng nghệ thuật độc đáo. Và Nguyễn Tuân cũng đã làm được điều đó!
– Nhà văn đã lựa chọn thể loại tùy bút một thể loại có cấu trúc tự do để thể hiện cách nhìn độc đáo về con người. Nguyễn Tuân luôn nhìn nhận con người dưới phương diện tài hoa nghệ sĩ. Nhà văn cho rằng cái tài hoa nghệ sĩ, cái chất anh hùng không ở đâu xa mà ở trong chính những người dân lao động đời thường. Người lái đò dù là chỉ người lao động bình dị nhưng vẫn hiện lên với những phẩm chất, vẻ đẹp của một người nghệ sĩ, một người anh hùng. Không những thế, việc lựa chọn và xây dựng tình huống để nhân vật xuất hiện cũng đã được Nguyễn Tuân sử dụng thành công để làm bật sự đan cài của cái khác thường với cái bình thường trong vẻ đẹp, tính cách, tâm hồn của người lái đò sông Đà. Đó là cuộc chiến không cân sức giữa sóng nước Đà giang có đủ tướng dữ quân tợn với người lái đò nhỏ bé, đơn độc trên con thuyền sáu bơi chèo. Thế nhưng chính trong tình huống thử thách đó ông lão lái đò đã thể hiện được vẻ đẹp phẩm chất của mình. Hình như Nguyễn Tuân đã tô đậm sự hung bạo, hiểm ác của sông Đà để ngầm đề cao chính người lái đò trí dũng, tài hoa mà khiêm nhường, bình dị. Và sẽ là thiếu sót khi không nhắc đến tài năng trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ của một người “phu chữ”. Nếu Tô Hoài coi mỗi chữ là một “hạt ngọc thả xuống trang văn” thì Nguyễn Tuân coi mỗi chữ viết ra phải tựa như một “giọt tinh huyết”. Vì thế, nhà văn đã rất kì công lựa chọn, gọt giũa từng từ ngữ, từng câu văn trước khi tung ra các trang viết của mình. Có thể thấy, để miêu tả cuộc giao tranh giữa người với thác dữ, Nguyễn Tuân đã có “ngón chơi” động từ độc đáo. Chỉ trong vài trang kí nhà văn đã vốc tới ngót 300 động từ để đủ sức tranh tài cùng với cơn cuồng nộ đà giang và trí lực ông lái phi thường. Tần số động từ đậm đặc nhất là ở trường đoạn ngẫu chiến giữa người và sông nước khiến người đọc nghẹt thở. Cơn cuồng phong động từ xô lên cùng cơn thịnh nộ của sông Đà “rống lên, nhổm cả dậy, vồ lấy, đánh khuýp, reo hò, thúc, đội, túm, lật ngửa, bóp chặt…”, phía ông lái đò xuất hiện một loạt các động từ cũng hợp sức tạo nên thế cưỡi hổ tung hoành: “nắm chặt, ghì cương, bám chắc, phóng nhanh…” hai trạng thái cho thấy sự đối chất, gay gắt nhưng đọc kĩ vẫn thấy nổi lên thế chủ động của ông lái đò, làm bật lên sự khác thường trong cái đời thường của ông lái đò.
* Đánh giá
– Khẳng định tính đúng đắn của nhận định. Người ta nói “Cái đẹp nằm trong đôi mắt của kẻ si tình”. Cách nhìn, góc nhìn trong cuộc sống đã quan trọng, trong văn học lại càng quan trọng hơn. Đó là vấn đề sống còn của người nghệ sĩ, bởi “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng vật liệu mượn ở thực tại, nhưng người nghệ sĩ không ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ hơn”. Đối với người nghệ sĩ nói chung và nhà văn nói riêng, phong cách không phải là vấn đề kĩ thuật mà là vấn đề cái nhìn. Đó là một sự khám phá mà người ta không thể làm một cách cố ý, gượng gạo và trực tiếp, bởi đó là sự khám phá về chất chỉ có được trong cách cảm nhận về thế giới, một cách cảm nhận không do nghệ thuật đem lại thì mãi mãi không được ai biết đến. Từ đó, chúng ta càng nhận thấy tính đúng đắn của nhận định: “Nhìn thấy cái khác thường trong cái bình thường và trong cái khác thường nhìn thấy cái bình thường – đó là phẩm chất của những nhà nghệ sĩ đích thực”.
– Rút ra bài học cho quá trình sáng tạo, tiếp nhận văn học. Thiết nghĩ rằng, với bạn với tôi – những người tiếp nhận sản phẩm nghệ thuật cần phải biết trân trọn những đóng góp, những khám phá sáng tạo, những cái nhìn mới, góc nhìn mới của mỗi nhà văn, còn với những người nghệ sĩ cần không ngừng khám phá, sáng tạo để khai sinh ra những tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Và để làm được điều đó, mỗi nhà văn cần phải có tài có tâm bởi “Tài nhờ tâm mà cháy lên, tâm nhờ tài mà tỏa sáng”. Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ đích thực với một cái tài đẹp, một cái tâm sáng và “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm hội tụ Tâm và Tài của người nghệ sĩ. Tác phẩm nghệ thuật chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng. Và dẫu những trang tùy bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã khép lại thế nhưng hình tượng của người lái đò sông Đà với vẻ đẹp bình dị, đời thường mà cao cả, khác thường vẫn tỏa sáng trong tâm hồn bạn đọc bao thế hệ.
KẾT BÀI
“Một cuộc thám hiểm thực sự không cần đến một vùng đất mới mà cần một đôi mắt mới”. Đôi mắt của người nghệ sĩ chân chính sẽ làm nên sức sống cho tác phẩm, làm nên vị trí cho nhà văn trên dòng chảy văn học nhân loại. Nguyễn Tuân quả là người nghệ sĩ đích thực với một “đôi mắt mới” để “nhìn thấy cái khác thường trong cái bình thường và trong cái khác thường nhìn thấy cái bình thường”