Đề bài: Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích nghệ thuật đặc sắc được sử dụng trong đoạn trích “Tấc đất Thành cổ”- Phạm Đình Lân
TẤC ĐẤT THÀNH CỔ
(PHẠM ĐÌNH LÂN)
Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi
Cho đồng đội tôi nằm yên dưới cỏ
Trời cũng tự trong xanh và lộng gió
Dẫu ồn ào đừng lay mạnh hàng cây
Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi
Thành cổ rộng sao đồng đội tôi nằm chật
Mỗi tấc đất là cuộc đời có thật
Cho hôm nay tôi đến nghẹn ngào
Bạn nằm lại nơi này, nơi nao?
Phía đông thành, tây thành hay dưới dòng Thạch Hãn
Tám mươi mốt ngày đêm đất trời ken dày bom đạn
Cát trắng rang vàng, nghiêng lệch cả dòng sông
…
(Trích Tấc đất Thành cổ, Phạm Đình Lân, theo /https://tinhuyquangtri.vn/rung-rung-dang-hinh-to-quoc)
Chú thích:
(1) Phạm Đình Lân: Sinh ngày 2/10/1946, nguyên quán Nam Định, sinh tại quê ngoại Hà Nam, từng sống nhiều năm ở Thanh Hoá. Ông có thơ đăng báo từ rất sớm. Năm 1972, khi mới là sinh viên ra trường, đi thực tế ở các tỉnh miền Trung, ông đã có một chùm thơ in trên tạp chí Tác phẩm mới của Hội Nhà văn Việt Nam. Từ 1969 đến 1979 ông là phóng viên – biên tập viên báo Nhân dân; từ 1980 đến nay là phóng viên – biên tập viên báo Văn nghệ. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1993.
(2) Bài thơ Tấc đất thành cổ được Phạm Đình Lân sáng tác trong một lần ông cùng những người đồng chí của mình thăm lại chiến trường xưa – thành cổ Quảng Trị. Tháng 7-2002.
Dàn ý NLVH phân tích nghệ thuật đặc sắc được sử dụng trong đoạn trích “Tấc đất Thành cổ”- Phạm Đình Lân
Mở bài
– Giới thiệu bài thơ và bối cảnh ra đời.
– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đặc biệt là những nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những mất mát, hy sinh của bao thế hệ cha anh vẫn còn khắc sâu trong lòng dân tộc. Những năm tháng hào hùng ấy không chỉ được lưu giữ qua trang sử mà còn vọng mãi trong thi ca. Bài thơ không chỉ là tiếng lòng tri ân của người ở lại mà còn là bản trường ca về những người lính đã ngã xuống nơi Thành cổ. Với giọng thơ sâu lắng, hình ảnh biểu tượng giàu sức gợi và những biện pháp tu từ đặc sắc, bài thơ khắc họa chân thực sự khốc liệt của chiến tranh, đồng thời tôn vinh vẻ đẹp bất tử của những người lính đã hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc.
Thân bài
1. Thể thơ tự do
– Giúp bài thơ linh hoạt trong cách diễn đạt, không bị gò bó bởi quy tắc niêm luật.
– Tạo không gian cho cảm xúc dâng trào, thể hiện được nỗi xúc động, sự tiếc thương và lòng tri ân sâu sắc.
2. Giọng thơ sâu lắng, ngọt ngào
– Giọng điệu trữ tình, nhẹ nhàng nhưng đầy xúc động, thể hiện sự tri ân đối với những người lính đã hy sinh.
– Xen lẫn trong sự dịu dàng ấy là những khoảng lặng suy tư, gợi lên nỗi xót xa và niềm tiếc thương vô hạn.
3. Nhịp thơ linh hoạt
– Khi chậm rãi, khi dồn dập, phù hợp với từng cung bậc cảm xúc của tác giả.
– Tạo hiệu ứng nhấn mạnh, khiến bài thơ dễ đi vào lòng người đọc.
4. Biện pháp tu từ
– Điệp ngữ: “Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi” – thể hiện sự thành kính, trang nghiêm trước sự hy sinh của các anh hùng liệt sĩ.
– Câu hỏi tu từ: “Thành cổ rộng sao đồng đội tôi nằm chật?” – gợi lên sự mất mát to lớn, những nấm mồ chung của biết bao chiến sĩ.
– Liệt kê: “Phía đông thành, tây thành hay dưới dòng Thạch Hãn” – khắc họa sự phân tán của những linh hồn liệt sĩ, gợi sự tiếc thương vô bờ.
5. Sử dụng từ láy
– Những từ láy như “ồn ào”, “nghẹn ngào” không chỉ tạo nhạc điệu mà còn gợi hình ảnh chân thực về không khí chiến trường và tâm trạng xúc động của người chứng kiến.
6. Hình ảnh mang tính biểu tượng
– “Cát trắng rang vàng, nghiêng lệch cả dòng sông” – gợi lên sự khốc liệt của chiến tranh, đồng thời ẩn chứa nỗi đau thương mất mát.
– “Đất trời ken dày bom đạn” – tái hiện chân thực cảnh chiến trường với những trận bom ác liệt, nơi sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc.
Kết bài
– Khẳng định lại giá trị nghệ thuật đặc sắc của bài thơ.
– Nhấn mạnh ý nghĩa lớn lao của tác phẩm trong việc ca ngợi tinh thần chiến đấu kiên cường, sự hy sinh anh dũng của những người lính.
– Liên hệ đến trách nhiệm của thế hệ hôm nay trong việc gìn giữ hòa bình, trân trọng những giá trị mà cha ông đã đánh đổi bằng máu xương.
Đọc bài thơ, ta không chỉ cảm nhận được nỗi xót xa trước những mất mát mà còn nhận thấy một nguồn sức mạnh lớn lao từ lòng yêu nước, tinh thần bất khuất của những con người dám hy sinh vì hòa bình. Tác phẩm như một nén tâm nhang gửi đến những người đã nằm lại trong lòng đất mẹ, đồng thời là lời nhắc nhở thế hệ hôm nay về giá trị của độc lập, tự do. Để rồi từ đó, ta càng biết trân trọng hiện tại, sống xứng đáng với sự hy sinh thiêng liêng của những người đi trước.
Bài văn mẫu NLVH phân tích nghệ thuật đặc sắc được sử dụng trong đoạn trích “Tấc đất Thành cổ”- Phạm Đình Lân
Bài văn mẫu hay
Nhà thơ Phạm Đình Lân đồng thời là cựu chiến binh từng tham gia chiến đấu gìn giữ thành cổ Quảng Trị. Bài thơ “Tất đất Thành cổ” là tác phẩm nổi bật về chủ đề ghi nhớ công lao to lớn của vị anh hùng trong công cuộc bảo vệ đất nước và mang những nét đặc sắc về nghệ thuật của một bài thơ tự do.
Với sự nhớ nhung vô hạn, bài thơ “Tấc đất Thành cổ” của Phạm Đình Lân ra đời trong một chuyến đi tình nghĩa. Hằng năm, vào tháng bảy, những người lính sinh viên năm xưa quay lại chiến trường xưa để thăm viếng các đồng đội, các bạn học đã anh dũng hi sinh. Qua đây, thể hiện được sự nhớ thương vô hạn của ông đối với những người đồng đội thân yêu của mình.
Bài thơ có điểm nhìn đặc biệt, điểm nhìn của một con người trong cuộc, trong cuộc chiến đấu ác liệt năm xưa, nhưng may mắn được bước ra khỏi khói lửa chiến tranh. Nay đứng ở hòa bình nhìn lại quá khứ, trực tiếp thể hiện những trải nghiệm sâu sắc, những xúc cảm mãnh liệt và những tư tưởng giàu giá trị nhân văn.
Mở đầu bài thơ là những cảm xúc day dứt, tự dặn lòng mình:
“Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi
Cho đồng đội tôi nằm yên dưới cỏ”
Từng bước chân, từng tiếng nói cất lên như nấc nghẹn trước sự thật tàn khốc., Nơi đây, tác giả đã từng cùng đồng đội vào sinh ra tử, chiến đấu kiên cường sao trong thời khắc này chỉ còn mình tác giả đứng nhớ về kỉ niệm xưa? Bao nhiêu đồng đội đã năm xuống, bao nhiêu xác đồng đội đã bỏ lại nơi chiến trường nơi đây. Từng hình ảnh cứ như thế in hằn trong tâm trí nhà thơ trong suốt những năm dài sau kháng chiến. Mỗi bước chân đặt xuống như đang giẫm lên thân đồng đội mình, nên tác giả tự dặn lòng phải “nhẹ bước chân và nói khẽ thôi” như sợ đồng đội không yên giấc.
Tác giả đã tái hiện lại hiện thực mùa hè đỏ lửa 1972 với 81 đại đội, 81 ngày đêm chiến đấu và hi sinh để giữ thành cổ, chiến tranh vô cùng khốc liệt, những tổn thất hi sinh, mất mát là vô kể vô biên:
“Tám mươi mốt ngày đêm đất trời ken dày bom đạn.
Cát trắng rang vàng, nghiêng lệch cả dòng sông”
Hình tượng những người lính dũng mãnh của một thời trận mạc, nhìn những đồng đội mình từng chiến đấu hết mình, chiến đấu đến quên mình:
“Súng trong tay và đôi mắt rực lửa
Trút hận xuống đầu thù rồi ngã xuống bình yên”
Đó là sự xúc động nghẹn ngào khi về với Thành cổ, nơi in dấu những bước chân mòn của bao lớp người ngã xuống vì quê hương. Tác giả cũng mang đầy nỗi vấn vương, tiếc nhớ đồng đội, xót xa đau đớn vô bờ.
“Thành cổ rộng sao đồng đội tôi nằm chật
Mỗi tấc đất là một cuộc đời có thật
Cho hôm nay tôi đến nghẹn ngào”
Về lại chiến trường xưa, lúc đất nước đã hòa bình, tác giả khát khao rằng những người đồng chí đồng đội hi sinh năm đó, nay nằm dưới cỏ xanh, mong lắm các bạn ra đi thanh thản. Và ước mong những người sống hãy gìn giữ bình yên cho họ, hãy xứng đáng với sự hi sinh của họ.:
“Bạn nằm lại nơi nào bạn ơi?”
Dù mất mát, đau thương, con người vẫn phải sống, sống tiếp, sống cho xứng đáng với công lao của những người anh hùng đã hy sinh, tác giả tự dặn lòng:
“Thắp nhang và khóc ít thôi”
Nay tôi còn được sống là nhờ vào sự hy sinh cao cả của các bạn, và mỗi tháng bảy tôi lại về đây, về đốt cho các bạn một nén nhang tưởng nhớ. Tác giả thể hiện sự tôn trọng và tinh thần nhớ đến những người lính đã mãi ra đi vì dân tộc.
Bằng cách sử dụng từ ngữ giản dị, mộc mạc, gần gũi kết hợp với thể thơ tự do; ngôn từ mộc mạc giản dị nhưng giàu giá trị nghệ thuật, gợi hình gợi cảm, gợi liên tưởng và rung động sâu xa; giọng điệu nhắn nhủ tâm tình giàu chất trữ tình tác giả nhắn nhủ tới đồng đội những người đã chiến đấu và hi sinh, nhắn nhủ tới hôm nay với những người đang sống và đang được hưởng hòa bình, nhắn nhủ với chính mìnhsự biết ơn sâu sắc. Bên cạnh đó, những biện pháp tu từ cũng được tác giả sử dụng linh hoạt tạo giá trị biểu hiện hiệu quả: điệp cấu trúc, điệp từ, ẩn dụ,so sánh, cường điệu…
Bài thơ đem lại cho người đọc một cảm giác rất mạnh mẽ về tình yêu quê hương, lòng dũng cảm và tinh thần đoàn kết trong cuộc chiến. Vậy nên chúng ta cần phải biết ơn những thế hệ đã cống hiến hi sinh vì nền độc lập hòa bình ngày hôm nay. Và phải sống cống hiến,sống có trách nhiệm, sống xứng đáng với máu xương của cha ông đã thấm trên từng tấc đất.
Bài văn mẫu 1
Chiến tranh – hai tiếng khắc nghiệt nhưng cũng đầy bi tráng. Nó không chỉ là nỗi đau, mất mát mà còn là biểu tượng cho tinh thần kiên cường, ý chí bất khuất và lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Bài thơ không đơn thuần chỉ là những vần thơ mà còn là lời tri ân sâu sắc gửi đến những người lính đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Tác giả đã chọn thể thơ tự do để diễn tả trọn vẹn những cung bậc cảm xúc, từ trầm lắng đến nghẹn ngào. Giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng nhưng ẩn chứa trong đó là niềm đau xót, tiếc thương cho những người lính trẻ tuổi thanh xuân đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường ác liệt. Nhịp thơ linh hoạt, khi dồn dập, khi chậm rãi, tạo nên sự đồng điệu với những cảm xúc dâng trào trong lòng người đọc.
Đặc biệt, bài thơ sử dụng nhiều biện pháp tu từ độc đáo để khắc sâu hình ảnh về cuộc chiến và sự hy sinh anh dũng. Điệp ngữ “nhẹ bước chân và nói khẽ thôi” không chỉ là lời nhắc nhở mà còn thể hiện sự tôn kính, lòng tri ân của thế hệ hôm nay đối với những người lính đã khuất. Câu hỏi tu từ như “Thành cổ rộng sao đồng đội tôi nằm chật?” hay “Bạn nằm lại nơi này, nơi nao?” gợi lên nỗi xót xa vô hạn. Những từ láy như “ồn ào”, “nghẹn ngào” càng làm rõ hơn sự đối lập giữa khói lửa chiến tranh và nỗi niềm tiếc thương.
Hình ảnh thơ mang tính biểu tượng mạnh mẽ. “Cát trắng rang vàng, nghiêng lệch cả dòng sông” không chỉ gợi lên khung cảnh khốc liệt của chiến trường mà còn là hình ảnh ẩn dụ về những nỗi đau mất mát không gì bù đắp được. Cả bài thơ là một bản nhạc trầm buồn, một nén tâm hương tưởng nhớ những người đã hy sinh, đồng thời cũng là lời nhắc nhở mỗi thế hệ phải luôn ghi nhớ, trân trọng những giá trị của hòa bình hôm nay.
Bài văn mẫu 2
Những cuộc chiến đã đi qua, nhưng ký ức về những năm tháng bi tráng ấy vẫn mãi in sâu trong lòng những người ở lại. Bài thơ như một lời nhắn gửi, một nén tâm hương tri ân những người lính đã ngã xuống trên mảnh đất anh hùng, để thế hệ sau hiểu hơn về sự hy sinh lớn lao của cha ông vì nền độc lập dân tộc.
Với thể thơ tự do, bài thơ không bị gò bó trong khuôn khổ mà tuôn chảy theo dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình. Giọng thơ trầm lắng, ngọt ngào nhưng đầy xúc động. Nhịp thơ linh hoạt, lúc chậm rãi như một lời thủ thỉ, lúc nghẹn ngào như tiếng nấc của những con người đang đối diện với mất mát.
Tác giả sử dụng nhiều biện pháp tu từ để làm nổi bật nỗi đau chiến tranh và sự trân trọng với những người lính. Điệp ngữ “nhẹ bước chân và nói khẽ thôi” như một lời dặn dò, một sự tôn kính dành cho những anh hùng đã hy sinh. Câu hỏi tu từ “Bạn nằm lại nơi này, nơi nao?” không chỉ thể hiện nỗi tiếc thương mà còn gợi lên hình ảnh những chiến sĩ vô danh mãi mãi không thể trở về quê hương. Những từ láy “ồn ào”, “nghẹn ngào” làm rõ nét hơn sự khốc liệt của chiến tranh và sự bồi hồi xúc động của người đang hoài niệm.
Đặc biệt, bài thơ chứa đựng những hình ảnh đầy ám ảnh như “đất trời ken dày bom đạn” hay “cát trắng rang vàng, nghiêng lệch cả dòng sông”. Không cần những câu chữ hoa mỹ, hình ảnh thơ chân thực đã khắc sâu trong lòng người đọc sự dữ dội của chiến tranh và những mất mát không gì có thể bù đắp.
Bài thơ không chỉ là tiếng lòng tri ân mà còn là một lời nhắc nhở thế hệ hôm nay về giá trị của hòa bình, về sự biết ơn đối với những con người đã hy sinh cả tuổi trẻ để bảo vệ quê hương.
Bài văn mẫu 3
Lịch sử dân tộc Việt Nam là bản trường ca hào hùng về những cuộc chiến đấu vì độc lập, tự do. Trong những trang sử ấy, có những người lính đã ra đi và không bao giờ trở lại, họ nằm xuống để đổi lấy hòa bình hôm nay. Bài thơ là khúc tưởng niệm đầy xúc động dành cho những anh hùng đã ngã xuống, đồng thời là sự nhắc nhớ về sự tàn khốc của chiến tranh.
Thể thơ tự do giúp bài thơ có sự phóng khoáng trong nhịp điệu, phản ánh đúng dòng cảm xúc chân thành của tác giả. Giọng thơ nhẹ nhàng, lắng đọng, có lúc như một lời tâm tình, có khi lại da diết nghẹn ngào. Nhịp thơ khi chậm rãi, khi dồn dập, tạo nên những cung bậc cảm xúc khác nhau, đưa người đọc hòa vào những dòng hồi ức đầy xúc động.
Tác giả sử dụng hàng loạt biện pháp nghệ thuật để làm nổi bật nội dung bài thơ. Điệp ngữ “nhẹ bước chân và nói khẽ thôi” như một lời nhắc nhở, một sự kính cẩn dành cho những chiến sĩ đã ngã xuống. Câu hỏi tu từ “Thành cổ rộng sao đồng đội tôi nằm chật?” gợi lên hình ảnh đau thương về những chiến sĩ hy sinh mà không có nổi một nấm mồ riêng. Những từ láy “ồn ào”, “nghẹn ngào” càng làm tăng thêm sự xúc động trong lòng người đọc.
Không chỉ vậy, bài thơ còn chứa đựng nhiều hình ảnh mang tính biểu tượng. “Cát trắng rang vàng, nghiêng lệch cả dòng sông” không chỉ tái hiện sự khốc liệt của chiến tranh mà còn là hình ảnh ẩn dụ về những nỗi đau không gì có thể xóa nhòa. “Đất trời ken dày bom đạn” là một bức tranh khốc liệt của chiến trường, nơi mà sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc.
Bài thơ không chỉ khắc họa sự tàn khốc của chiến tranh mà còn thể hiện lòng biết ơn, sự trân trọng đối với những người lính đã hy sinh. Nó là lời nhắc nhở mỗi chúng ta rằng, hòa bình ngày hôm nay không tự nhiên mà có, mà đó là máu, là nước mắt, là sự đánh đổi của biết bao thế hệ cha anh. Vì thế, hãy sống xứng đáng với những gì mà họ đã hy sinh, để không bao giờ lãng quên những trang sử vẻ vang của dân tộc.