ĐỀ LUYỆN 08– “Chao ôi! Hắn đã viết những gì?Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa“. (Đời thừa – Nam Cao) – “Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!“. (Vũ Như Tô – Nguyễn Huy Tưởng) Nỗi day dứt của Hộ và tiếng kêu đau đớn tuyệt vọng của Vũ Như Tô gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì về tấn bi kịch của người nghệ sỹ trong xã hội cũ? Những vấn đề nào đã được đặt ra qua tấn bi kịch của họ? |
GỢI Ý
1. MỞ BÀI: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận.
2. THÂN BÀI
2.1. Giới thiệu khái quát vấn đề : Kịch Vũ Như Tô được viết năm 1941. Truyện ngắn Đời thừa được Nam Cao sáng tác năm 1943. Mặc dù khai thác hai đề tài khác nhau, viết bằng hai thể loại khác nhau, nhưng tư tưởng của họ đã gặp nhau ở nhiều điểm: mối quan tâm đến số phận của người nghệ sỹ tài năng; những suy tư về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời; vấn đề phẩm chất của người nghệ sỹ…Tất cả đều được thể hiện qua tấn bi kịch của hai nhân vật: Vũ Như Tô và Hộ.
2.2. Phân tích tấn bi kịch của hai nhân vật:
Giống nhau:
* Địa vị: mặc dù sống ở hai thời đại cách xa nhau, song cả hai đều là nghệ sỹ: Vũ Như Tô là một kiến trúc sư, còn Hộ là một nhà văn.
* Phẩm chất:
– Là người nghệ sỹ, ở họ đều cháy bỏng một niềm đam mê nghệ thuật:
+ Vũ Như Tô: khao khát điểm tô đất nước, đem hết tài ra xây cho đất nước một tòa đài hoa lệ, “thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hóa công”
+ Hộ: ấp ủ một hoài bão: viết được một tác phẩm “làm mờ hết những tác phẩm cùng ra một thời”.“Tác phẩm ấy sẽ ăn giải Nobel và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu”.
– Ở góc độ con người, họ đều là những nhân cách đáng trọng:
+ Vũ Như Tô: có phẩm chất của một đấng trượng phu ở nhân cách cứng cỏi, thái độ coi thường danh lợi.
+ Hộ: một người giàu lòng nhân ái, vị tha.
* Số phận: qua tiếng kêu đau đớn của Vũ Như Tô “Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì?…và nỗi day dứt của Hộ “Chao ôi! Hắn đã viết những gì? … Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa”. Người đọc có thể nhận ra: Họ đều lâm vào bi kịch đổ vỡ lý tưởng, bi kịch phải sống một cuộc đời thừa.
– Nguyên nhân dẫn đến tấn bi kịch của hai nhân vật: đều dựa trên cơ sở mâu thuẫn giữa một bên là niềm khát khao sáng tạo, khát khao khẳng định tài năng, khẳng định ý nghĩa sự tồn tại của cá nhân với một bên là hoàn cảnh, điều kiện sống không cho phép họ thực hiện khát vọng của mình.
– Diễn biến mâu thuẫn:
+ Nhân vật Hộ:
++ Trước khi gặp Từ, Hộ chưa có bi kịch vì lúc ấy Hộ chỉ có một mình “Đói rét không có nghĩa lí gì đối với gã trẻ tuổi say mê lí tưởng”.
++ Mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh từ khi Hộ ghép cuộc đời mình vào cuộc đời Từ, bởi từ đó Họ có cả một gia đình để chăm lo. Để làm tròn bổn phận một người chồng, một người cha, Hộ phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc Cuộc sống cơm áo không cho phép Hộ đầu tư công sức vào nghệ thuật. Hộ phải “viết để sống”, lấy văn chương làm kế mưu sinh. Cách viết đó không đáp ứng, thậm chí đi ngược lại yêu cầu của nghệ thuật chân chính “Văn chương không cần… chưa có”. Ý thức được điều đó, Hộ vô cùng đau khổ “Chao ôi! Hắn đã viết những gì?…một người thừa”.
+ Nhân vật Vũ Như Tô:
++ Mâu thuẫn dẫn đến bi kịch: đó là mâu thuẫn giữa niềm khát khao sáng tạo, quan niệm nghệ thuật cao siêu thuần tuý với lợi ích trực tiếp, thiết thực của đời sống nhân dân.
++ Mâu thuẫn nảy sinh từ khi Vũ Như Tô nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm, quyết định xây Cửu Trùng Đài.(Lí do: sưu thuế tăng, thợ giỏi bị bắt bớ, người bị tai nạn, bị chết nhiều vô kể…).
++ Mâu thuẫn được thể hiện:
+++ Qua những lời oán thán của nhân dân “Vua xa xỉ là vì ông, cong khố hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì ông, man di oán giận là vì ông, thần dân trách móc là vì ông…”.
+++ Lời kết tội của bọn nội giám: việc sinh ra quân phản loạn trong triều cũng là vì Vũ Như Tô.
++ Diễn biến của mâu thuẫn:
+++ Năm lớp kịch đầu: mâu thuẫn giữa Vũ Như Tô, thợ thuyền và nhân dân chưa bị đặt vào thế đối đầu trực tiếp. Nó chỉ mới thể hiện gián tiếp qua lời của các nhân vật trung gian: Đan Thiềm, bọn nội giám…
+++ Kịch tính được đẩy lên từ lớp kịch thứ 6 (khi quân khởi loạn kéo vào nơi Vũ Như Tô làm việc, gươm giáo sáng loà). Và càng căng thẳng hơn ở lớp kịch 7,8 khi quân khơỉ loạn xúc phạm Vũ Như Tô, Đan Thiềm, truy bắt lũ cung nữ, cuối cùng bắt trói cả Đan Thiềm và Vũ Như Tô.
++ Mâu thuẫn được giải quyết ở lớp kịch thứ 9 với hai sự việc:
Nhân dân đốt phá Cửu Trùng Đài
Vũ Như Tô bị giải ra pháp trường.
– Thái độ của nhà văn trước tấn bi kịch của hai nhân vật:
+ Nam Cao: thấy rõ nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Hộ là do xã hội thực dân phong kiến. Qua tấn bi kịch của Hộ, Nam Cao lên án xã hội thực dân phong kiến đã bóp chết ước mơ, tước đi ý nghĩa sự sống chân chính của con người.
+ Nguyễn Huy Tưởng: không giải thích được “Than ôi! Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm!”. Trong cái nhìn của chúng ta hôm nay thì cả Vũ Như Tô và Đan Thiềm đều có cái phải và cái không phải:
++ Những kẻ giết Vũ Như Tô:
Phải: ở chỗ đã không đồng tình với việc xây Cửu Trùng Đài.
Không phải; ở hành động phá một công trình nghệ thuật to lớn; giết một nhân tài kiệt xuất.
++ Vũ Như Tô:
Phải ở hoài bão, ước mơ, khát vọng..
Không phải: ở con đường thực hiện lý tưởng (mượn uy quyền, tiền bạc của bạo chúa); ở lòng đam mê nghệ thuật một cách mù quáng ( thứ nghệ thuật Vũ Như Tô đam mê là thứ nghệ thuật cao siêu thuần tuý, nó xa rời thậm chí đối lập với cuộc sống của nhân dân lúc bấy giờ).
Khác nhau: Ở kết cục của mỗi số phận
– Tấn bi kịch của Hộ tuy đau đớn, dai dẳng và thầm lặng ( sau bi kịch đời thừa, Hộ lâm tiếp vào bi kịch thứ 2: một con người vốn tôn thờ lẽ sống tình thương, cuối cùng lại vi phạm chính lẽ sống đó, trở thành một kẻ vũ phu, tàn nhẫn). Nhưng Hộ còn được sống (sống thừa). Kết cục không đến nỗi quá bi đát.
– Còn Vũ Như Tô:
+ Không thực hiện yêu cầu của Lê Tương Dực -> bị giết, bị tru di cửu tộc (chết vào tay Lê Tương Dực).
+ Thực hiện yêu cầu của Lê Tương Dực -> Chết vào tay quân khởi loạn và nhân dân.
=> Đằng nào cũng bế tắc! Người nghệ sỹ thiên tài này rơi vào cảnh cùng đường tuyệt lộ (chỉ có một con đường chết).
Những vấn đề đặt ra qua tấn bi kịch của hai nhân vật:
– Số phận của những nghệ sỹ tài năng trong xã hội cũ (xã hội ấy không có đất dụng võ, đất sống cho những người tài. Đây có lẽ cũng là tâm sự sâu kín của hai người nghệ sỹ Nguyễn Huy Tưởng và Nam Cao).
– Cần giải quyết đúng đắn mối quan hệ nghệ thuật – cuộc đời:
+ Đặt cuộc đời lên trên nghệ thuật -> Người nghệ sỹ phải sống một cuộc sống thừa.
+ Đặt nghệ thuật lên trên cuộc đời -> Người nghệ sỹ có thể sẽ đánh mất nhiều thứ quý giá khác (nhân phẩm – Hộ, thậm chí phải chết như Vũ Như Tô).
– Vấn đề phẩm chất nghệ sỹ:
+ Chữ tài phải đi liền với chữ tâm (không thể nói Vũ Như Tô có một cái tâm và một cái trí sáng suốt khi mượn uy quyền tiền bạc của bạo chúa để thoả mãn khát vọng nghệ thuật của mình).
+ Cái đẹp phải đi liền với cái thiện thì mới là cái đẹp đáng được tôn thờ.
2.3. Đánh giá: Cả hai tác phẩm đều rất xuất sắc
– Không chỉ đặt ra những vấn đề của đời sống mà còn rút ra những bài học có ý nghĩa sâu sắc cho những người làm nghệ thuật. Đồng thời được viết bởi những ngòi bút tài hoa, điêu luyện.
– Thể hiện sự thức tỉnh sâu sắc ý thức cá nhân của tầng lớp trí thức đương thời.
3. KẾT BÀI: Khẳng định lại vấn đề.