📘 Tải 100+ tài liệu nghị luận văn học, 100+ đề thi học sinh giỏi ... chỉ 1 Click

Phân tích bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh

Đề bài: Em hãy Phân tích bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh

CẢNH RỪNG VIỆT BẮC 

(Hồ Chí Minh)

Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,

             Vượn hót, chim kêu suốt cả ngày.

             Khách đến thì mời ngô nếp nướng,

             Săn về thường chén thịt rừng quay.

             Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,

             Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.

              Kháng chiến thành công ta trở lại,

             Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.

(Hồ Chí Minh Toàn tập– tập 5, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000)

Chú thích:

(*) Bài thơ “Cảnh rừng Việt Bắc” được Bác Hồ viết vào mùa xuân năm 1947, sau một năm quân ta tạm rút khỏi thủ đô Hà Nội lên núi rừng Việt Bắc, lập căn cứ cho cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp. Đây là lần thứ hai, Bác Hồ và Trung ương Đảng sống, làm việc tại căn cứ địa Việt Bắc để lãnh đạo cách mạng.

Dàn ý chi tiết

Mở bài Giới thiệu tên bài thơ, đoạn trích thơ, tác giả và nếu cảm nghĩ chung của em về bài thơ.

Cảnh rừng Việt Bắc” được Bác Hồ viết vào mùa xuân năm 1947, sau một năm quân ta tạm rút khỏi thủ đô Hà Nội lên núi rừng Việt Bắc, lập căn cứ cho cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp. Đây là lần thứ hai, Bác Hồ và Trung ương Đảng sống, làm việc tại căn cứ địa Việt Bắc để lãnh đạo cách mạng.

Trong thơ Hồ Chí Minh, thiên nhiên không bao giờ tách rời con người và cách mạng. Giữa những năm tháng gian nan của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, núi rừng Việt Bắc hiện lên không chỉ là căn cứ địa mà còn là nơi nuôi dưỡng niềm tin, ý chí và tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng. Bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc, sáng tác vào mùa xuân năm 1947, là một bức tranh thiên nhiên sống động, tươi vui, chan hòa sự sống. Qua những vần thơ mộc mạc mà giàu chất cổ điển, Bác Hồ đã thể hiện tình yêu tha thiết với núi rừng Việt Bắc, đồng thời bộc lộ tinh thần lạc quan, ung dung và niềm tin sắt son vào thắng lợi của cách mạng. Đọc bài thơ, ta cảm nhận rõ điều mà Tố Hữu từng viết: “Bác Hồ đó, ung dung giữa đất trời.”

Thân bài Tập trung phân tích những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

– Nội dung:

Luận điểm 1: Đặc sắc về nội dung của bài thơ:

·         – Hai câu đề: Cảm xúc trước cảnh rừng Việt Bắc.

+ Câu thơ “Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay” với từ ngữ cảm thán “thật là hay” đã trực tiếp thể hiện cảm xúc ngợi ca, yêu mến của thi nhân với cảnh sắc nơi núi rừng Việt Bắc.

+ Vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc được gợi ra qua những hình ảnh: vượn hót, chim kêu– là những thanh âm quen thuộc của muông thú, gợi ra một bức tranh thiên nhiên sống động, gần gũi và bình dị vô cùng. Ở đó, con người như được chan hoà trong thế giới tự nhiên.

-> Hai câu thơ vừa thể hiện vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc, vừa thể hiện tâm hồn tha thiết yêu và gắn bó với thiên nhiên của Bác.

·         – Hai câu thực: Cuộc sống thú vị nơi núi rừng Việt Bắc.

+ Những món ăn dân dã như “ngô nếp nướng”, “thịt rừng quay” gợi nếp sinh hoạt giản dị, hoà hợp với thiên nhiên của người chiến sĩ cộng sản. Đó cũng là những sản vật để mời khách quý phương xa.

+ Trong câu thơ thứ tư, Bác dùng chữ “chén” thay cho chữ “ăn” nghe thân mật mà thoáng nét cười hóm hỉnh.

-> Tiếp nối và kế thừa hai câu đề, hai câu thơ thực đã cho thấy cuộc sống đầy thú vị nơi núi rừng Việt Bắc của vị lãnh tụ: những món ăn dân dã nhưng chẳng kém phần đặc sắc, đó là những món quà quý mà thiên nhiên Việt Bắc hào phóng ban tặng cho con người. Từ đó gợi liên tưởng tới nếp sống giản dị, gắn bó chan hoà với thiên nhiên, gần gũi với đời sống nhân dân của Bác.

·         – Hai câu luận: Cảm xúc vui say trước thiên nhiên, cuộc sống ở Việt Bắc.

+ Thiên nhiên ban tặng con người: Non xanh, nước biếc; Rượu ngọt, chè xanh. Cuộc sống của người cách mạng có đầy đủ, phong phú cả về đời sống tinh thần lẫn vật chất. Cảnh sắc núi rừng thì tươi đẹp; rượu ngon, chè mát luôn sẵn có hàng ngày.

+ Con người đón nhận, tận hưởng: Tha hồ dạo, Mặc sức say. Đây là cảm xúc thoả mãn, vui say trước vẻ đẹp thiên nhiên và cuộc sống nơi này.

-> Những câu thơ như tạc vẽ trước mắt ta hình ảnh một con người đang rất thư thái tận hưởng, say đắm ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp ấy. Cuộc đời người cách mạng những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp nơi núi rừng Việt Bắc còn bộn bề khó khăn, thiếu thốn. Nhưng với một tâm hồn lạc quan, yêu và gắn bó tha thiết với thiên nhiên, Bác luôn ung dung, tự tại như vậy.

·         – Hai câu kết: Tinh thần lạc quan, tin tưởng vào tương lai cách mạng.

+ “Kháng chiến thành công ta trở lại” câu thơ chất chứa bao ý tình. Cuộc kháng chiến chống Pháp mới diễn ra chưa đầy một năm, dù xác định đó là cuộc kháng chiến trường kì, nhưng Người luôn tin tưởng vào tương lai tất thắng của dân tộc. Trong buổi đầu đầy gian khó của cách mạng, mà Bác đã nghĩ về ngày “kháng chiến thành công”.

+ Cụm từ “ta trở lại” vừa như một lời hứa thuỷ chung vừa như một niềm ao ước. Dù ngày kháng chiến thành công ấy gần hay xa nhưng nhất định “ta” sẽ “trở lại”- trở về với núi rừng Việt Bắc, cái nôi của cách mạng, của cuộc kháng chiến.

+ Những hình ảnh xuất hiện qua biện pháp nghệ thuật liệt kê “trăng xưa”, “hạc cũ”, “xuân này”. Bài thơ dùng bút pháp tả thực và hình ảnh ước lệ “trăng xưa”, “hạc cũ” khiến cho khung cảnh Việt Bắc hiện ra vừa hiện thực, sinh động, vừa đầy chất thơ, sức gợi.

-> Kết thúc bài thơ, âm hưởng thơ lại càng tươi vui và bay bổng. Nghĩ đến ngày kháng chiến thành công, Bác dự cảm trở lại cảnh rừng Việt Bắc, sẽ gặp lại vầng trăng tri kỉ năm xưa, sẽ gặp lại cảnh xuân nơi núi rừng bao năm gắn bó. Phải có một tấm lòng tha thiết yêu thiên nhiên, một tâm hồn lạc quan phơi phới, Bác mới viết lên những vần thơ đẹp đẽ như thế.

Luận điểm 2: Đặc sắc về hình thức nghệ thuật của bài thơ:

– Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật: mỗi câu thơ gồm bảy tiếng, cả bài thơ gồm 8 câu. Có bố cục chặt chẽ, thống nhất của thể loại là bốn phần: đề- thực- luận- kết.

– Bài thơ được viết theo luật Bằng: chữ thứ hai của câu thơ thứ nhất là “rừng”- thanh bằng.

– Thanh điệu các câu thơ và toàn bài thơ hài hoà, chặt chẽ theo đúng nguyên tắc hoà thanh “nhị- tứ- lục phân minh” của thơ Đường luật (ví dụ). Đảm bảo quy định về niêm, về liên (ví dụ).

– Vần: bài thơ gieo vần chân, là vần liền xen vần cách ở các câu 1-2-4-6-8. Cụ thể “hay- ngày- quay- say- này” với vần “ay”.

– Nghệ thuật đối được thể hiện ở cặp câu luận: đối từ “non xanh, nước biếc” đối với “rượu ngọt, chè xanh”; đối ý “tha hồ dạo” với “mặc sức say” làm nổi bật cuộc sống ung dung tự tại giữa cảnh rừng Việt Bắc của vị lãnh tụ.

– Nhịp: bài thơ ngắt 4/3- nhịp phổ biến của bài thơ thất ngôn.

– Ngôn ngữ, hình ảnh thơ bình dị, gần gũi mà tươi tắn, nên thơ; có sử dụng kết hợp hình ảnh ước lệ “trăng xưa”, “hạc cũ” ở cuối bài thơ.

– Sử dụng hiệu quả biện pháp tu từ liệt kê “Vượn hót, chim kêu, ngô nếp nướng, thịt rừng qua, non xanh, nước biếc, rượu ngọt, chè tươi, …” để làm nổi bật sự tươi đẹp, phong phú của khung cảnh thiên nhiên, cuộc sống nơi núi rừng.

– Bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc của thơ Đường: tình và cảnh luôn tồn tại song song biểu hiện cụ thể tâm trạng con người trong mối quan hệ giữa không gian và thời gian.

Kết bài  – Khẳng định lại giá trị của đoạn thơ.

– Cảm xúc hoặc lời nhắn gửi tới mọi người.

Cảnh rừng Việt Bắc, hình ảnh núi rừng xanh thẳm, tiếng chim rộn ràng, bát canh ngô nếp, chén rượu nồng và vầng trăng tri kỉ vẫn còn lắng sâu trong lòng người đọc. Bài thơ không chỉ là bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của căn cứ địa kháng chiến mà còn là chân dung tinh thần của Hồ Chí Minh – một con người sống giản dị, chan hòa với thiên nhiên, luôn giữ vững niềm tin vào ngày mai tất thắng. Qua bút pháp tả cảnh ngụ tình và thể thơ Đường luật chặt chẽ, Bác đã gửi gắm một triết lí giản dị mà sâu sắc: trong gian lao vẫn có thể tìm thấy niềm vui, trong thử thách vẫn giữ trọn niềm tin. Cảnh rừng Việt Bắc vì thế không chỉ là bài thơ ngợi ca thiên nhiên mà còn là khúc ca lạc quan của một tâm hồn lớn, luôn hướng về mùa xuân của dân tộc.

Yêu thích

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bói Bài Tarot
Mở trang