📘 Tải 100+ tài liệu nghị luận văn học, 100+ đề thi học sinh giỏi ... chỉ 1 Click

Phân tích bài thơ Đất nước tôi của Tạ Hữu Yên

Đề bài: Phân tích bài thơ Đất nước tôi của Tạ Hữu Yên.

Đất nước tôi
Đất nước tôi từ dòng sông xanh
Sát cánh bên nhau, đắm say đêm ngày
Lòng ta luôn đượm đầy tình
Dẫu cho đời vẫn mãi đong đầy.
Dân tộc tôi, từ bờ cõi
Đất nước tôi ngàn đời không vơi
Tự hào là dân tộc anh hùng
Vẫn sáng ngời như những vì sao.
Đất nước tôi, từ cánh đồng
Hương lúa ngát, rực rỡ bình minh
Vị ngọt của đời vươn ra
Từ những dòng sông, núi đồi xanh.
Và tôi yêu những con người
Những dòng chữ vang vọng trời xanh
Những ngày vui, những ngày buồn
Đất nước tôi, nơi ta chung tình.
Tôi xin dâng hiến bài thơ
Gửi tặng cho non sông tổ quốc
Dù ở đâu, dù bao nhiêu nơi
Đất nước tôi, mãi là yêu thương.

Dàn ý Phân tích bài thơ Đất nước tôi của Tạ Hữu Yên

Mở bài

  • Tạ Hữu Yên là một trong những gương mặt đáng chú ý của thơ ca hiện đại Việt Nam. Thơ ông thường mang màu sắc trữ tình sâu lắng, gần gũi với tâm hồn người Việt qua những hình ảnh rất đỗi đời thường nhưng chất chứa cảm xúc lớn lao.
  • Bài thơ “Đất nước tôi” là một khúc ca ngợi về quê hương, nơi chốn không chỉ ghi dấu những cảnh đẹp thiên nhiên, lịch sử oai hùng mà còn là mảnh đất nuôi dưỡng tình yêu nước nồng nàn của mỗi con người. Tác phẩm là tiếng nói tha thiết và tự hào của tác giả dành cho Tổ quốc.

Tạ Hữu Yên là một nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại, người đã mang đến cho thơ ca một giọng điệu riêng – trữ tình, sâu lắng và đầy chất dân tộc. Trong dòng chảy thi ca đương đại, ông nổi bật không chỉ bởi tình cảm nồng hậu dành cho quê hương mà còn bởi cách ông thổi hồn vào từng hình ảnh rất đỗi bình dị, quen thuộc. Bài thơ “Đất nước tôi” chính là một minh chứng cho phong cách ấy – một bài thơ không phô trương mà vẫn truyền tải được lòng yêu nước mãnh liệt và chân thành. Qua từng vần thơ, đất nước hiện lên không chỉ như một miền đất cụ thể mà còn là ký ức, là niềm tự hào, là cội nguồn không thể tách rời trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam.

Thân bài

A. Khái quát nội dung bài thơ

Bài thơ “Đất nước tôi” mang đậm niềm tự hào, sự xúc động và tình cảm gắn bó của tác giả với quê hương xứ sở. Đất nước hiện lên không chỉ qua vẻ đẹp hình hài địa lý, mà còn qua lịch sử, truyền thống và tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam.

B. Phân tích hình ảnh và cảm xúc

1. Hình ảnh quê hương đất nước trong thơ

Hình ảnh thiên nhiên hiện lên một cách sinh động và trữ tình. Những cánh đồng bát ngát, dòng sông êm đềm hay ngọn núi hùng vĩ không chỉ là vẻ đẹp hình thể mà còn là biểu tượng cho sự sống động và sức mạnh của Tổ quốc.

Đất nước trong thơ Tạ Hữu Yên không chỉ là mảnh đất cụ thể mà còn là một linh hồn. Đó là nơi chôn nhau cắt rốn, nơi gắn bó máu thịt với mỗi con người. Tác giả viết về đất nước bằng sự tự hào nhưng cũng đầy dịu dàng, như nói về người thân yêu.

2. Tình cảm, tâm trạng và hồi ức

Trong từng câu chữ, tình yêu nước hiện lên chân thành và sâu đậm. Có lúc là niềm kiêu hãnh khi nhìn lại lịch sử hào hùng, có lúc là sự cảm động khi nhớ về một vùng đất thân thuộc, có lúc lại là sự biết ơn đối với những người đi trước đã gìn giữ non sông.

Tác phẩm cũng gợi nhắc đến những ký ức cá nhân – có thể là thời thơ ấu bên đồng ruộng, hoặc những ngày sống giữa lòng thành phố nhưng trái tim luôn hướng về quê cha đất tổ. Những hoài niệm ấy không lặp lại rõ ràng mà như những làn sương phủ nhẹ trong từng câu thơ.

C. Nghệ thuật thơ và hiệu ứng cảm xúc

1. Hình thức và thể thơ

Tùy vào phiên bản, bài thơ có thể được viết bằng thể thơ tự do hoặc thể truyền thống như lục bát. Dù theo khuôn thức nào, tác giả vẫn giữ được nhịp điệu hài hòa, linh hoạt để truyền tải cảm xúc một cách tự nhiên và mạch lạc.

2. Ngôn ngữ và hình ảnh thơ

Ngôn từ trong thơ gần gũi, giản dị nhưng đầy sức gợi. Không cần nhiều mỹ từ, mỗi câu thơ vẫn đọng lại bởi những hình ảnh quen thuộc, đời thường. Những chi tiết như “bến sông”, “bãi ngô”, “tiếng trống làng”… đã gợi mở bao không gian ký ức về làng quê Việt Nam.

Tác giả vận dụng linh hoạt các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa… để hình ảnh đất nước hiện lên sống động mà giàu chất thơ. Nhờ đó, người đọc không chỉ nhìn thấy mà còn cảm thấy – cảm được tình yêu và niềm tự hào đang ngân lên trong từng dòng.

3. Âm điệu và nhịp điệu

Bài thơ có âm điệu nhẹ nhàng nhưng không thiếu phần mạnh mẽ khi cần. Những đoạn viết về vẻ đẹp quê hương mang âm điệu du dương, tha thiết. Còn khi nói về quá khứ hào hùng, giọng thơ như vút cao, hừng hực khí thế.

Nhịp thơ không đơn điệu mà có sự thay đổi linh hoạt để phản ánh chuyển động của cảm xúc: lúc trầm lắng, lúc dồn dập, lúc lặng im. Từ đó, tạo nên một dòng cảm xúc liền mạch, khiến người đọc dễ hòa nhập và rung cảm.

Kết bài

  • Bài thơ “Đất nước tôi” không chỉ là một bản tình ca về quê hương mà còn là biểu tượng cho lòng yêu nước trong thi ca hiện đại. Tạ Hữu Yên đã khéo léo kết hợp giữa cái riêng của cảm xúc cá nhân với cái chung của dân tộc để tạo nên một tác phẩm sâu sắc và đầy rung động.
  • Tác phẩm như một lời nhắn gửi đến mỗi người Việt rằng: dù đi đâu, làm gì, tình yêu đất nước vẫn luôn là cội nguồn, là ánh sáng nâng đỡ tâm hồn và truyền cảm hứng sống đẹp cho tất cả chúng ta.

“Đất nước tôi” không chỉ là một tác phẩm giàu cảm xúc mà còn là lời khẳng định mạnh mẽ về mối dây liên kết thiêng liêng giữa con người và Tổ quốc. Bằng ngôn ngữ giản dị mà thấm đẫm hồn thơ, bằng hình ảnh mộc mạc mà đậm đà bản sắc dân tộc, Tạ Hữu Yên đã vẽ nên một bức tranh đất nước vừa gần gũi, vừa sâu xa. Bài thơ không chỉ khơi gợi niềm tự hào trong mỗi người đọc, mà còn nhắc nhở ta gìn giữ và trân trọng những giá trị cội nguồn. Trong nhịp sống hiện đại, thơ ông như một nốt lặng đẹp đẽ, để mỗi chúng ta biết dừng lại, lắng nghe và sống sâu hơn với tình yêu quê hương đất nước.

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Đất nước tôi của Tạ Hữu Yên

Bài mẫu đặc sắc

I. Mở bài: Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm
-Tạ Hữu Yên là một nhà văn, nhà thơ tài hoa của đất cố đô Ninh Bình. Thơ ông dung dị, hàm xúc, giàu nhạc điệu, lại gần gũi với thiên nhiên, với con người, đặc biệt là những tình cảm, lòng kính yêu mà nhà thơ đã dành cho quê hương, Đảng Cộng sản Việt Nam hay chủ tịch Hồ Chí Minh, được xem là tấm gương cho nền văn học Ninh Bình.
– Bài thơ “Đất nước tôi” ra đời năm 1984, sau một lần nhà thơ thăm trại an dưỡng dành cho các bà mẹ có con là liệt sỹ ở Thái Bình. Và rất nhanh sau đó đã được nhạc sỹ Phạm Minh Tuấn phổ nhạc rồi nổi tiếng khắp cả nước.
II. Thân bài: Phân tích những vấn đề cơ bản
a. Hình tượng Mẹ – Hình tượng Đất nước
– “Đất nước tôi” của nhà thơ Tạ Hữu Yên tuy không bắt nguồn từ cảm hứng lớn như ở “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điểm và Nguyễn Đình Thi nhưng với sự khắc họa của nhà thơ, hình ảnh đất nước vẫn hiện lên đầy đủ, cụ thể mà cô đọng. Qua nỗi đau của mẹ, qua ân tình của mẹ, đất nước Việt Nam hiện lên đau thương mà anh dũng, lam lũ mà anh hùng… Nhà thơ đã nhân cách hóa đất nước như người mẹ. Người mẹ và đất nước hòa vào nhau tạc nên hình tượng cao cả, đẹp đẽ.
– Viết về đất nước, nhà thơ Tạ Hữu Yên đã mở đầu bằng tình cảm gắn bó giữa người ở hậu phương hướng về tiền tuyến. Lời thơ khắc họa nên hình ảnh đất nước rất gần gũi thân thương:
“Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu
Nghe dịu nỗi đau của mẹ
Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ
Các anh không về, mình mẹ lặng im”
– Nhà thơ đã chọn giọt đàn bầu, tiếng đàn bầu không dồn dập mà khoan nhặt như giọt mưa thu thánh thót ngoài hiên, mới xoa dịu được nỗi đau của mẹ “Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ”. Chỉ hai câu thơ: Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ / Các anh không về, mình mẹ lặng yên” tác giả đã khắc họa được những cuộc chiến tranh tàn khốc và tấm lòng kiên trung, anh hùng của các bà mẹ Việt Nam. Cách nói “ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ” chỉ là cách nói hình tượng, bởi trên dặm dài đất nước, ta có thể gặp rất nhiều những người mẹ mỏi mòn chờ đợi những đứa con không bao giờ trở về. Những người con của mẹ đã hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho mùa xuân của dân tộc. Các anh sẽ trở về với mẹ, trở về trong tâm linh, bằng tiếng gió xào xạc của đêm thâu, bằng sự lặng im trong cõi lòng mẹ. Sự ra đi mãi mãi, không trở về của những đứa con khiến mẹ đay dứt, nỗi đau ấy như lặn vào trong để rồi mẹ chỉ biết “khóc thầm lặng lẽ”. Lời thơ da diết, day dứt và ám ảnh trong tâm thức người đọc, trong lòng những người đang sống hôm nay.
– Nhà thơ nghĩ đến sự hy sinh lớn lao của những bà mẹ Việt Nam có con ra đi rồi mãi mãi nằm lại nơi chiến trường và đã viết nên những vần thơ lắng đọng về mẹ. Mẹ đã nén lòng, hy sinh hạnh phúc riêng tư của mình để đất nước đứng lên, hiên ngang trước giặc thù. Và nỗi đau của mẹ cũng như những mất mát của đất nước này như những giọt đàn bầu, buồn đó nhưng trầm lắng, nhẹ nhàng, lắng sâu. Với các mẹ, chiến tranh có thể mang thân thể con mẹ đi vĩnh viễn, nhưng các anh vẫn thường trực trong đời sống của mẹ, trong tình yêu, nỗi nhớ của mẹ. Những thổn thức đó khiến nhà thơ cũng như bạn đọc rưng rưng một nỗi niềm xúc động khó gọi thành tên.
“Đất nước tôi
Từ thuở còn nằm nôi
Sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa
Lao xao trưa hè một giọng ca dao”
– Lựa chọn hình ảnh Bà mẹ Việt Nam anh hùng để gợi hình ảnh đất nước thật xác đáng vì trong suy nghĩ của mỗi chúng ta đất nước là người Mẹ lớn nhất. Chỉ có Mẹ mới hy sinh thầm lặng, yêu thương chúng ta vô điều kiện! Thời kỳ nào cũng vậy, khi đất nước có nắng lửa, bão giông và giặc giã thì mẹ là người hy sinh nhiều nhất. Hy sinh cả cuộc đời mình, cả những giọt máu của mình, là những đứa con thân yêu cho Tổ quốc, cho Đất nước “rạng ngời muôn thuở”. Những mất mát hy sinh, những nỗi đau, những ân tình của Mẹ đã làm nên dáng hình đất nước tươi đẹp. Vậy nên, thật dễ hiểu vì sao những người mẹ sẵn sàng “gánh gạo nuôi con”, tiễn con lên đường ra trận và chấp nhận những người con mang nặng đẻ đau không bao giờ trở về. Những hy sinh to lớn mà rất đỗi thầm lặng, không tên đã giữ cho đất nước trường tồn, để đất nước còn có tên trên bản đồ, có dáng cong cong hình chữ S bên Biển Đông, cùng chung tiếng nói, tập quán, nền văn hiến lâu đời.
– Bài thơ đã làm thổn thức bao trái tim của những người con đất Việt mỗi khi nhớ về mẹ, về quê hương, về đất nước rất đỗi thiêng liêng để rồi giai điệu về đất nước được cất lên cao vút, ngân nga trong lòng bao thế hệ người Việt yêu nước nồng nàn.
“Xin hát về người đất nước ơi
Xin hát về mẹ Tổ quốc ơi
Suốt đời lam lũ
Thương lũy tre làng bãi dâu, bến nước
Yêu trọn tình đời muối mặn, gừng cay”
– Đất nước trong tâm thức của nhà thơ không phải thuần túy là lãnh thổ hữu hình, những con số, sự kiện lịch sử. Điều làm nên bản sắc của đất nước còn là những điều vô hình gắn bó với số phận dân tộc suốt cả ngàn năm: Truyền thống văn hóa, lối suy nghĩ trọng tình cảm: “Yêu trọn tình đời, muối mặn gừng cay”… Điều gì đã làm nên hình tượng đất nước thiêng liêng? Nhà thơ đi tìm câu trả lời trong những điều hiền hoà và bình dị nhất: “Giọng ca dao”, “câu hò”, “tiếng mẹ ru con”, “tiếng sáo”, “lũy tre làng”, “bãi dâu”, “bến nước”… Nhưng những điều bình dị ấy lại vô cùng lớn lao, nhẹ nhàng nhưng vô cùng sâu sắc để qua đó ta mới thấy được sự hy sinh thầm lặng mà cao cả của mẹ, để giữ cho đất nước trường tồn mãi mãi. Chính những điều bình dị ấy đã chứa đựng hồn dân tộc làm nên “Đất nước muôn đời”.
– Mẹ Việt Nam muôn đời là thế: Chịu thương, chịu khó, cần mẫn, tảo tần, sẵn sàng hi sinh, dành tặng cho Đất nước những đứa con thân yêu của mình:
“Xin hát về người đất nước ơi
Xin hát về mẹ Tổ quốc ơi!
Mấy mùa không ngủ
Ngăn bước quân thù phía Nam, phía Bắc
Vai mẹ lại gầy gánh gạo nuôi con”
– Mẹ là cánh cò trong câu ca dao “tảo tần chung thủy”, vẫn chia đều mỗi hạt lúa, củ khoai cho những đứa con chung của đất nước. Hình ảnh tảo tần của mẹ khiến ta nhớ tới hình ảnh người mẹ trong ca khúc “Huyền thoại mẹ” của Trịnh Công Sơn:
“Mẹ về đứng dưới mưa
Che đàn con nằm ngủ
Canh từng bước chân thù…”
– Ba khổ thơ trữ tình đều được mở đầu bằng hai câu: “Xin hát về Người, đất nước ơi! Xin hát về Mẹ, Tổ quốc ơi!”. Biện pháp điệp cấu trúc làm cho khổ thơ như là đoạn điệp khúc trong một bài hát. Không chỉ biểu hiện tâm thế yêu mến Tổ quốc vô ngần, muốn ngợi ca đất nước, nhân dân vĩ đại mà còn thể hiện sự lạc quan của nhà thơ. Lời thơ rất giàu tính nhạc nên bài thơ đã được nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn phổ nhạc thành bài hát “Đất nước” với gia điệu da diết, ngọt ngào.
– Mẹ là vậy, tình riêng mẹ vẹn, tình chung mẹ tròn. Đối với cách mạng tuy còn nhiều gian khổ nhưng mẹ vẫn hạt muối cắn đôi, bát cơm sẻ nửa cho cách mạng, cho nhân dân. Tình cảm mẹ dành cho đất nước thật cao cả, thiêng liêng dù trong bất kì hoàn cảnh nào.
“Xin hát về người đất nước ơi
Xin hát về mẹ Tổ quốc ơi
Vẫn còn gian khổ
Hạt thóc chia đều dẫu no dẫu đói
Ta vẫn vẹn tình đắng ngọt cùng vui”
– Bài thơ kết thúc với điệp khúc “Đất nước tôi, Đất nước tôi…” vẫn còn vang vọng mãi như khắc vào ngàn năm tượng đài những người đã làm rạng danh đất nước: Đó là mẹ, là các anh và cả chúng ta ngày hôm nay. “Đất nước tôi sáng ngời muôn thuở”, nhưng cũng thật dịu dàng và bình yên trong hình ảnh ánh trăng vào cửa sổ đòi thơ, bình yên và sáng ngời bởi những con người biết làm sáng hình đất nước: Chính bản sắc văn hóa ở chiều sâu tâm thức dân tộc nên khi đối diện với những biến thiên thời đại lập tức trở thành sức mạnh tinh thần vô địch giúp dân tộc vượt qua khó khăn thử thách nên hình ảnh đất nước mãi “Sáng ngời muôn thuở”.
“Đất nước tôi.
Sáng ngời muôn thuở
Khi trăng đã vào cửa sổ đòi thơ”
– Có thể nói bài thơ “Đất nước tôi” của Tạ Hữu Yên đã truyền tải thông điệp vô cùng ý nghĩa, là lời tri ân chân thành nhất, chạm tới chiều sâu nhân sinh trong lòng mỗi con người Việt Nam đối với Mẹ, đối với Tổ quốc Việt Nam thân yêu. Mỗi khi cất lên, tiếng đồng vọng từ quá khứ lại trở về, một quá khứ rất đỗi đau thương nhưng hào hùng của dân tộc Việt Nam ta. Nó là lời nhắc nhở đối với những người đang sống về sự biết ơn vô bờ trước những hy sinh thầm lặng của các mẹ Việt Nam qua nhiều thế hệ. Lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, chân thành mà cũng rất đỗi thiết tha, mãnh liệt đối với các thế hệ con cháu mai sau của dân tộc phải thấm đẫm đạo lý “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc Việt Nam ta từ bao đời nay, trân trọng những hy sinh to lớn của thế hệ đi trước; từ đó, mỗi người nguyện ra sức phấn đấu để chung tay xây dựng đất nước, gìn giữ Tổ quốc trường tồn.
b. Những hình thức nghệ thuật đặc sắc:
– Lời thơ mộc mạc nhưng lại rất giàu hình ảnh, chân thành và giàu ý nghĩa nhân văn. Giọng thơ trữ tình, thủ thỉ, khi thiết tha, bồi hồi, đằm thắm, da diết lúc lắng đọng suy tư, biện pháp điệp cấu trúc giúp cho câu thơ giàu tính nhạc.
– Sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian một cách sáng tạo, không trích nguyên văn, không kể lể dài dòng mà chỉ nắm bắt lấy rất nhạy cái hồn của văn hóa dân gian để gợi liên tưởng, suy ngẫm cho độc giả: Thành ngữ “muối mặn gừng cay”, không gian làng quê xưa “bãi dâu”, “bến nước”, giọng ngọt ngào của những câu ca dao, âm điệu du dương của tiếng sáo… giúp tâm hồn ta đã căng sẵn một sợi dây đàn, chỉ cần một rung động nhỏ là tâm hồn ấy sẽ ngân rung bao hồi ức, bao rung động làm cho người đọc hiểu sâu hơn về mẹ, về đất nước, nhân dân.
– Hình ảnh người mẹ Việt Nam lồng trong dáng hình đất nước được nhà thơ miêu tả bằng những hình ảnh vô cùng giản dị “giọt đàn bầu”, “giọng ca dao”, “luỹ tre làng”, “bãi dâu”, “bến nước”, “câu hò”, “tiếng sáo”… bài thơ rất giàu nhạc điệu đã khiến nhạc sĩ họ Phạm ám ảnh khôn nguôi và đã phổ nhạc thành bài hát “Đất nước” với giai điệu du dương trầm bồng, da diết, ngọt ngào được cất lên với không khí hào hùng, sâu lắng khi đất nước được hoàn toàn thống nhất. Bài hát đã nhanh chóng đi vào lòng người nghe bao thế hệ.

 

5/5 - (1 bình chọn)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *