📘 Tải 100+ tài liệu nghị luận văn học, 100+ đề thi học sinh giỏi ... chỉ 1 Click

Phân tích bài thơ Đất Vị Hoàng của Trần Tế Xương

Xã hội Việt Nam giữa thế kỷ 18 được coi là một trong những xã hội thối nát nhất của chính quyền phong kiến lúc bấy giờ, khi phải đối mặt với sự uy hiếp xâm lược hoàn toàn của thực dân Pháp. Chính trong bối cảnh ấy, nhiều tác phẩm châm biếm, trào phúng đã ra đời. Trong số đó, Trần Tế Xương là một trong những nhà thơ tiêu biểu. Những tác phẩm của ông vừa mang đậm chất trữ tình, vừa pha lẫn sự trào phúng, phản ánh rõ nét hiện thực xã hội thuộc địa nửa phong kiến của đất nước ta. Và bài thơ Đất Vị Hoàng là một trong những tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi.

Bài thơ Đất Vị Hoàng được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, có kết cấu độc đáo với thủ vĩ ngâm. Câu 1 và câu 8 hoàn toàn giống nhau: “Có đất nào như đất ấy không?” Đây là câu hỏi tu từ, mang sắc thái nghi vấn mà cũng đầy ẩn ý. Nhà thơ hỏi để nguyền rủa, giọng thơ trở nên đau đớn, chua xót, khi cảnh vật và xã hội đã thay đổi quá nhiều. Đất đai, quê hương xưa cũ nay đã không còn như trước, bao cảnh đau lòng diễn ra hằng ngày. Cái nhìn của Trần Tế Xương cho thấy tình trạng gia đình và xã hội đang xuống cấp nghiêm trọng. Trong xã hội giao thời cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, sự tha hóa đạo đức lan tràn, phản ánh qua tiếng cười chua xót của tác giả.

Sự bất bình của tác giả đối với tình trạng xã hội đáng lên án được thể hiện rõ qua hai câu thơ mở đầu:

Có đất nào như đất ấy không

Phố phường tiếp giáp với bờ sông.

Bài thơ mở ra một bức tranh sống động về Nam Định, nơi được coi là “Địa Linh Nhân Kiệt”, nơi có truyền thống hiếu học và những con người tài giỏi. Tuy nhiên, dưới ngòi bút trào phúng của Trần Tế Xương, Nam Định hiện lên không phải với vẻ đẹp rực rỡ mà chất chứa những mảng tối của xã hội. Qua câu hỏi tu từ đầu tiên, tác giả bất bình trước sự thay đổi nhanh chóng của quê hương mình, khi những người thực dân và tay sai chiếm đất, chiếm ruộng, phố xá mọc lên nhưng lại là sự phồn vinh của bọn bất lương, làm giàu trên sự khốn khó của người dân. Cảnh vật đổi thay, lối sống mới xâm nhập, làm thay đổi cuộc sống của con người nơi đây. Nhìn từ góc độ này, Trần Tế Xương không chỉ phê phán sự thay đổi trong cảnh vật mà còn tố cáo những mặt trái của xã hội, sự thống trị của bọn thực dân và sự thối nát trong hành vi của chính người dân nước mình.

Hai câu thơ tiếp theo trong phần thực như một bức tranh biếm họa đầy vết ố. Sự tha hóa đạo đức càng làm nổi bật lên tiếng cười đả kích của nhà thơ:

“Nhà kia lỗi phép con khinh bố,
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.”

Ngày xưa, người Việt coi trọng đạo hiếu, nhưng giờ đây con cái lại khinh thường cha mẹ, vợ chửi chồng. Hình ảnh người con gái nước Nam thùy mị, nết na nay còn đâu khi “chanh chua chửi chồng”. Những người còn hiếu thảo, vâng lời cha mẹ nay cũng đã biến mất mà thay vào đó là “ con khinh bố” Lý do gì khiến những tình cảm thiêng liêng ấy bị coi thường? Phải chăng đồng tiền đã làm mờ mắt mọi người, khiến họ chỉ quan tâm đến vinh hoa, phú quý mà quên đi đạo lý? Tác giả phê phán một xã hội bị tha hóa, khi mà gia đình không còn tôn ti trật tự, đạo đức xã hội bị đảo lộn.Phải chăng đồng tiên đã làm cho ta mờ mắt chỉ tham lam đến vinh hoa phú quý mà bỏ quên những đạo lí, chuẩn mực đạo đức tốt đẹp. Thật ghê tởm cái xã hội nhem nhuốt. Khi tình trạng đạo đức gia đình và xã hội xuống cấp nghiêm trọng .

Hai câu luận: Tế Xương đã khắc họa sự đổi thay to lớn trong xã hội, nơi mà con người hiện ra với đủ mọi tính cách xấu xa, bần tiện, hôi hám:

“ Keo cú người đâu như cứt sắt

Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng”

Hai câu luộn mở rộng ý thơ trong phần thực làm cho bức tranh “Đất Vị Hoàng” được tô đậm sắc màu hiện thực.Ở cái đất Vị Hoàng thuở ấy nhan nhản những loại người “tham lam” và “keo cú”. “Keo cú” đến bần tiện, ghê tởm và hôi hám. Nhà thơ ngạc nhiên hỏi và dùng phép so sánh”người đâu như cứt sắt” sao mà đang sợ,đáng khinh bi .Lại có loại người “tham lam” đến cùng cực, nhịp sống cuộc đời họ chỉ là chuyện thở rặt hơi đồng”. Nếu thay từ “thở” bằng từ “nói’ hay những từ khác thì không lột tả được bnr chất cuảt loại người tham lam này. Bởi “thở’ phải đi liền với “hơi đồng”-tiền.Phép đảo ngữ (keo cú, tham lam) lên đầu để nhấn mạnh, rất có giá trị thẩm mỹ, tạo nên ngữ điệu dữ dội, khinh bỉ, một tiếng chửi đời cay độc.  Một gia đình hỏng từ vợ đên schồng đến con cái. Vậy xã hội làm sao tốt đẹp được. Những kẻ tham lam, keo cú trên đất nước ta nhiều vô kể. Họ bần tiện, ghê gớm đến nổi như cứt sắt – 1 chất thải ra từ đất nung không còn có thể đẽo, gặm gì nữa. Hai câu thơ  đã vạch trần nét tiêu cực tính cách con người trong thời đô thị hóa ở làng Vị Hoàng thời đó. Đó là 1 bảng cáo trạng mà nhà thơ viết lên để tố cáo những kẻ tham lam vì tiền mà đánh mất con người.

Hai câu kết đã đẩy vần thơ lên cao trào của giọng điệu châm biếm và lên án:

Bắc Nam hỏi người bao tỉnh

Có đất nào như đất ấy không?

Tác gải sử dụng  1 câu hỏi không chỉ cho người dân đất vị hoàng mà câu hỏi còn cho người dân cả nước, đòng thời là nỗi lòng của nhà thơ. Không còn là chuyện riêng, chuyện cá biệt ở cái làng vị hoàng nhỏ bé nữa mà là hiện thực thối nát, đồi bại, xấu xa, đạo lí suy đồi, phép tắc gia đình đảo lộn, xã hội ngập tràn những xấu xa, bần tiện. Trong xã hội thực dân nữa phong kiến của 1 nước bị mất chủ quyền. Cái xấu, cái ác đã trở thành nỗi nhục của nhiều người trên 1 không gian rộng lớn “ Bắc Nam” không gian rộng lớn người bao tỉnh   Cách dùng nghệ thuật mở đầu – kết thúcdưới hình thức câu hỏi tu từ nghẹn ngào cất lên như một lời đay nghiến, vừa xót xa đau đớn. Tế Xương đã thể hiện thái độ bất mãn, phẫn nộ trước cảnh tượng, lề lối đạo đức suy đồi, phép tắc gia đình đảo lộn, xã hội ngập tràn những xấu xa, bần tiện. Điều này không chỉ đả kích mạnh vào xã hội đương thời mà còn đồng thời thể hiện rõ nét nỗi lòng lo lắng cho quê hương của chính nhà thơ. Chính hai câu thơ này đã nâng cao, mở rộng tầm tư tưởng ưtình cảm của bài thơ.

“Đất Vị Hoàng” là bài thơ viết bằng chữ Nôm, ngôn ngữ bình dị mà sắc sảo cùng với bút pháp điêu luyện mà tự nhiên, hồn nhiên. Câu 1 và câu 8 là câu hỏi tu từ “Có đất nào như đất ấy không?”‘, nhà thơ hỏi mà nghe đau đớn, xót xa . Bởi nơi chôn nhau cắt rốn thân thương nay đã thay đổi nhiều rồi, ngày ngày diễn ra bao cảnh đau lòng. Còn đâu nữa hình ảnh đẹp một thời, để tự hào và “nhớ”. Ngoài ra, nghệ thuật đối ở câu thực và câu luận của bài cũng góp phần tạo nên cái tiếng cười đả kích, chua xót của tác giả. Một tiếng cười vô vọng của một người thi sĩ không còn biết nói gì hơn với một cái xã hội đã bị thays đổi khi bọn thực dân đến cũng như cười nhạo, chế giễu những con người vì tiền, vì sự dinh hoa phú quý mà không quan tâm đến những thứ xung quanh mình. Lời bài thơ đã tạo nên dấu ấn thơ Tế Xương – một nhà thơ trào phúng bậc thầy của nước ta. Qua bài thơ ta cũng thấy được phần nào bất lực của nhà thơ trước thực tại của đất nước. Đồng thời qua những lời thơ ấy, ta cũng thấy được một tình yêu quê hương đất nước kín đáo của tác giả.

Bài thơ Đất vị hoàng là bài thơ trào phúng mà tôi ấn tượng nhất của nhà thơ Trần Tế Xương. Bài thơ đã làm nổi bật lên tính châm biếm, trào phúng của cái xã hội thối nát của việt nam khi bị bọn thực dân Pháp đô hộ. Tác phẩm của ông sẽ mãi dể lại ấn tượng sâu sắc trong lòng các thê shệ bạn đọc. Qua đó, tôi càng cảm nhận được sức mạnh của văn học, khi những tác phẩm như Đất Vị Hoàng, Hội Tây,… không chỉ giúp chúng ta nhìn lại quá khứ mà còn là bài học để chúng ta sống tốt hơn trong hiện tại và tương lai.

Yêu thích

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *