ĐỀ: Bàn về bài thơ “Đất vị Hoàng” của nhà thơ Trần Tế Xương có ý kiến cho rằng: “Bài thơ Đất Vị Hoàng của trần Tế Xương mãi mãi là nhà thơ trào phúng bậc thầy trên thi đàn dân tộc.” Qua việc phân tích bài thơ “Đất vị Hoàng” của Trần Tế Xương Anh / chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
DÀN Ý CHI TIẾT
Mở bài
– Giới thiệu về nhà thơ Trần tế Xương và bài thơ
Thân bài
– Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ
Hai câu đề
“Có đất nào như đất ấy không
Phố phường tiếp giáp với bờ sông”
Câu thơ đầu tiên tác phẩm đã sử dụng một biện pháp tu từ khá độc đáo gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ “có đất nào như đất ấy không” => sự xót thương đang trào dâng trong lòng người thi nhân thật khiến người đọc như chúng ta cũng cảm thấy xót xa. Một mảnh đất phồn vinh đẹp đẽ một mảnh đất tốt tươi là thế bây giờ còn đâu.
– Câu thơ biểu thị một tâm trạng xót thương và có phần căm tức khi mà một thời phồn vinh của đất nước giờ còn đâu.
Hai câu thực
“Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng”
– Hai câu thơ thật khiến chúng ta cảm thấy xót xa tột cùng. Ta nghe ý thơ như một lời của chính tác giả đang than thở cho một xã hội đã suy tàn đã trên bờ diệt vong.
– Xã hội ấy không còn một giá trị đạo đức nào nữa và xã hội ấy đã để đồng tiền vượt lên trên tất cả các chuẩn mực đạo đức. Những câu thơ cuối bài thơ đa thể hiện rõ điều đó.
c. Hai câu luận
✨ KHO TÀI LIỆU NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CHO GEN Z HỌC ĐỈNH ✨
- 💡 100 CÔNG THỨC MỞ BÀI NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CỰC ĐỈNH
- 📘 TRỌN BỘ CÁC KHÁI NIỆM LÝ LUẬN VĂN HỌC
- 📝 BÍ KÍP VIẾT BÀI NGHỊ LUẬN 600 CHỮ ĐẠT ĐIỂM 10
- 🌷 GHI NHỚ CÔNG THỨC MỞ BÀI CHO MỌI ĐỀ THƠ, TRUYỆN
- 🎯 CÁCH ĐƯA LÍ LUẬN VĂN HỌC VÀO BÀI NGHỊ LUẬN
- 💬 CÁCH VIẾT ĐOẠN VĂN THEO CÁC DẠNG CẤU TRÚC
- 🎓 300 TÀI LIỆU NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CHO HỌC SINH GIỎI
“Keo cú người đâu như cứt sắt
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng”
– Hai câu kết đẩy vần thơ lên cao trào của giọng điệu châm biếm và lên án. Không còn là chuyện riêng, chuyện cá biệt ở cái làng Vị Hoàng nhỏ bé nữa, mà là hiện thực thối nát, đồi bại xấu xa, đạo lí suy đồi, đảo điên… trong cái xã hội thực dân nửa phong kiến của một nước bị mất chủ quyền.
Hai câu kết
“Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh
Có đất nào như đất ấy không?”.
– Câu hỏi tu từ ở cuối đoạn như một tiếng khóc tỉ tê, thương thay cho vận mệnh đất nước. Mở đầu và kết thúc đều là câu hỏi “ Có đất nào như đất ấy không?” vừa xót xa, đay nghiến cái xã hội thối nát lúc bấy giờ.
– Nghệ thuật châm biếm, câu hỏi tu từ đầu cuối tương ứng, đã vạch trần được bộ mặt thật của xã hội nửa phong kiến đồng thời qua đây nhà thơ Tú Xương cũng bày tỏ thái độ tố cáo, đả kích sâu cay với những con người vì đồng tiền mà đánh mất giá trị bản thân, giá trị đạo đức xã hội. Đó là nỗi đau của người trong cuộc, đớn đau trước vận mệnh đất nước.
Kết bài
– Khẳng định lại giá trị của bài thơ
BÀI VIẾT THAM KHẢO
Trần Tế Xương được biết đến là cây bút châm biếm, đả kích quyết liệt, dữ dội những bài thơ của ông như những làn roi vút, quất thăng vào bộ mặt của xã hội phong kiến. Ông sinh ra, lớn lên và được trực tiếp chứng kiến thời buổi nhiễu nhương, nhan nhản lũ người nhí nhố, ngang nhiên làm những việc bất chính ngay giữa thanh thiên bạch nhật. Bức xúc vì không làm được gì, ông đã viết lên nhiều vần thơ sâu sắc mà chua xót phản ánh thực trạng đó, một trong những tác phẩm tiêu biểu phải kể đến bài thơ “Đất Vị Hoàng”. Vì thế khi nhận xét về bài thơ có ý kiến cho rằng: “Bài thơ Đất Vị Hoàng của trần Tế Xương mãi mãi là nhà thơ trào phúng bậc thầy trên thi đàn dân tộc.” Bài thơ là tinh thần, lẽ sống của con người đồng thời thể hiện thái độ châm biếm các thói hư tật xấu trong xã hội lúc bấy giờ.
“Vị Hoàng” là quê cha đất tổ của nhà thơ Tú Xương. Làng Vị Hoàng xa xưa có sông Vị Thủy chảy qua. Ngày Tây chiếm đóng thành Nam, khi cờ ba sắc xuất hiện thì sông Vị Thuỷ lấp dần. Vị Hoàng vốn là một miền quê có thứ chuối ngự ngon nổi tiếng, cùng với thơ Tú Xương đã trở thành thổ ngơi, đặc sản quê nhà, một trăm năm về trước, được truyền tụng trong dân gian: “Ăn chuối ngự, đọc thơ Xương”. Vị Hoàng cũng vốn là “nơi sang trọng, chốn nhiều quan”. Nhưng rồi biển dâu biến đổi, trong buổi giao thời hổ lốn dở Tây dở ta, ngày càng lộn xộn tang thương, đạo lí sa sút, suy đổi. Tú Xương đau cho nỗi đau quê nhà, xót cho thói đời đen bạc, buồn cho cảnh đất nước bị mất chủ quyền, quê cũ làng xưa đổi thay, bao chuyện đau lòng ngày một thêm nhiều cứ bày ra đó. Tú Xương đau cho nỗi đau quê nhà, xót cho thói đời đen bạc, buồn cho cảnh đất nước bị mất chủ quyền, quê cũ làng xưa đổi thay, bao chuyện đau lòng ngày một thêm nhiều cứ bày ra đó. Tú Xương đã có bài “Vị Hoàng hoài cổ” man mác buồn thương, lại thêm bài thơ “Đất Vị Hoàng” này để nói lên những chuyện xấu xa đồi bại ờ Vị Hoàng, ở thành Nam.
Bài thơ “Đất Vị Hoàng” được viết ở thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật, là bài thơ thể hiện niềm xót xa trước vận mệnh dân tộc. Vị Hoàng là nơi sinh ra của Tú Xương, – một vùng quê đầy bình yên có những thứ đặc sản nổi tiếng. Ngày giặc đến nhà, vùng quê bình yên đó trở nên xơ xác, tiêu điều. Là một người nặng tình với quê hương đất nước, Tú Xương đau đớn cho quê nhà, xót thương trước vận mệnh đất nước bị đảo lộn. Những việc xấu, “đổi trắng thay đen” cứ thế bày ra trước mắt, nỗi đau chồng chất nỗi đau. Từ đó bài thơ “Đất Vị Hoàng” ra đời để tố cáo cái xã hội lúc bấy giờ. Mở đầu bài thơ, nhà thơ đi thẳng vào vấn đề:
“Có đất nào như đất ấy không?
Phố phường tiếp giáp với bờ sông”
Câu hỏi tu từ ngay phần mở đầu, “có đất nào như đất ấy không?” gợi cho ta thật nhiều suy nghĩ. Mảnh đất của sự phồn vinh, bình yên, tuyệt đẹp với những bờ sông trải dài nay còn đâu. Giọng thơ trở nên thật chua chát trước cảnh nơi chôn rau cắt rốn của mình ngày càng đổi thay, các câu chuyện ngày càng đau lòng. Phồn vinh thì cũng không còn là của ta nữa, mà trở thành một nơi “ăn chơi sa đọa”, chốn để quân Pháp chơi bời. Còn gì đớn đau thay khi một quê hương phồn vinh hơn nhưng lại chẳng phải của chúng ta. Và cũng thật chua xót biết bao khi đó là nỗi đau không chỉ ở quê hương Tú Xương mà đó còn chính là nỗi đau của toàn dân tộc – một vùng trù phú rộng lớn trở nên tiêu điều xơ xác, một vùng chỉ có xác “phồn vinh” nhưng lại thiếu đi phần hồn. Đất nước bị chiếm đóng, phồn vinh kéo theo những hệ lụy, những đạo lí truyền thống của chúng ta bị đảo lộn.
“Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng”
Giặc chiếm đất, chiếm nhà, chiếm ruộng… của ta, phố phường cứ thế mọc lên và chúng càng vơ vét, càng bóc lột ta để làm giàu. Những đạo lí truyền thống chữ “hiếu” luôn đặt lên hàng đầu của ta từ ngàn đời nay còn đâu khi “con khinh bố”. Bố mẹ là người chăm lo cho ta, vậy lí do nào đã khiến cho tình cảm thiêng liêng ấy bị coi thường. Đó còn là “mụ vợ chanh chua”, người con gái nước Nam dịu dàng, nữ tính đi đâu mất rồi, thay vào đó lại là “mụ vợ chửi chồng”. Lí do gì đã khiến mọi trật tự, mọi đạo lí truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta bị đảo lộn, bị xáo trộn như vậy? Phải chăng đồng tiền đã làm cho con người ta mờ mắt, chỉ ham đến vinh hoa phú quý mà bỏ quên những điều xưa cũ, những đạo lí ân nghĩa thủy chung, những chuẩn mực đạo đức của ta. Ta thật sợ, ghê tởm cái xã hội nhem nhuốc, dơ bẩn lúc bấy giờ. Một gia đình không tốt, “hỏng” từ vợ – chồng đến con cái, vậy xã hội làm sao tốt đẹp đây?
“Keo cú người đâu như cứt sắt
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng”
Hai câu thơ sau là cảnh vẽ về con người đối nhau, một tứ thơ đầy hoàn thiện nhưng cũng đầy chua xót. Những kẻ tham lam, keo cú trên đất nước ta nhiều vô kể. Họ bần tiện, ghê gớm đến nỗi “như cứt sắt”- một chất thải ra từ đất nung không còn thể đẽo gặm gì nữa. Đó còn là những con người tham lam, vơ vét cho bản thân mà quên đi cái giá trị của con người, mở miệng ra là thấy nói chuyện tiền, lấy tiền làm chuẩn mực của đạo đức, đánh giá một con người. Thối tha thay cái xã hội lúc bấy giờ, đớn đau thay cho những con người bị tha hóa. Nhà thơ Tú Xương thật tài tình khi vận dụng nghệ thuật so sánh kết hợp với biện pháp đảo ngữ làm cho các câu thơ trở nên có giá trị thẩm mĩ cao. Giọng thơ trở nên dữ dội, khinh bỉ hơn bao giờ hết. Đó là một bản cáo trạng mà nhà thơ viết lên để tố cáo những kẻ tham lam, vì tiền mà đánh mất đạo đức con người.
“Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh
Có đất nào như đất ấy không”
Tú Xương kịch liệt lên án, tố cáo những thói hư tật xấu của con người lúc bấy giờ, hiện thực thối nát, cái xấu, cái ác, trắng đen lẫn lộn… Câu hỏi tu từ ở cuối đoạn như một tiếng khóc tỉ tê, thương thay cho vận mệnh đất nước. Mở đầu và kết thúc đều là câu hỏi “Có đất nào như đất ấy không?” vừa xót xa, đay nghiến cái xã hội thối nát lúc bấy giờ.
Bài thơ toàn Nôm, ngôn ngữ bình dị mà sắc sảo. Bốn câu hỏi xuất hiện trong bài thơ làm cho ngữ điệu thêm dữ dội, đầy ám ảnh. Thơ liền mạch, đúng là Tú Xương đã xuất khẩu thành thơ. Bút pháp điêu luyện mà tự nhiên, hồn nhiên, nhất khí mà bình dị. Trong thơ ca dân tộc ít có bài thơ thủ vĩ ngâm hay như bài thơ “Đất Vị Hoàng” này. Tú Xương mãi mãi là nhà thơ trào phúng bậc thầy trên thi đàn dân tộc.
✨ KHO TÀI LIỆU NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CHO GEN Z HỌC ĐỈNH ✨
- 💡 100 CÔNG THỨC MỞ BÀI NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CỰC ĐỈNH
- 📘 TRỌN BỘ CÁC KHÁI NIỆM LÝ LUẬN VĂN HỌC
- 📝 BÍ KÍP VIẾT BÀI NGHỊ LUẬN 600 CHỮ ĐẠT ĐIỂM 10
- 🌷 GHI NHỚ CÔNG THỨC MỞ BÀI CHO MỌI ĐỀ THƠ, TRUYỆN
- 🎯 CÁCH ĐƯA LÍ LUẬN VĂN HỌC VÀO BÀI NGHỊ LUẬN
- 💬 CÁCH VIẾT ĐOẠN VĂN THEO CÁC DẠNG CẤU TRÚC
- 🎓 300 TÀI LIỆU NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CHO HỌC SINH GIỎI
