📘 Tải 100+ tài liệu nghị luận văn học, 100+ đề thi học sinh giỏi ... chỉ 1 Click

Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến

Đề bài: Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến

Dàn ý tham khảo phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Khuyến và vị trí của ông trong văn học Việt Nam.

– Giới thiệu bài thơ “Khóc Dương Khuê” và hoàn cảnh sáng tác.

– Nêu khái quát nội dung và ý nghĩa của bài thơ.

=> Nguyễn Khuyến là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam cuối thế kỉ XIX. Ông nổi tiếng với chùm thơ thu và những tác phẩm phản ánh nỗi lòng của một trí thức trước thời cuộc, đồng thời để lại nhiều áng thơ thấm đẫm tình cảm chân thành. Bài thơ Khóc Dương Khuê được sáng tác khi người bạn tri kỷ của ông – Dương Khuê – qua đời, là tiếng khóc nghẹn ngào, chan chứa nỗi đau thương và tiếc nuối. Qua đó, Nguyễn Khuyến bộc lộ tình bạn gắn bó keo sơn, tri âm tri kỷ hiếm có trong văn chương cũng như trong đời sống.

II. Thân bài 

1. Nỗi đau mất bạn và tình bạn tri kỷ

– Khổ 1 và khổ 2:

+ Nỗi đau đớn của Nguyễn Khuyến khi nghe tin Dương Khuê qua đời.

+ Cảm giác mất mát, trống vắng, bàng hoàng.

+ Tình bạn sâu sắc, tri kỷ giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê.

=> Ngay từ những câu thơ mở đầu, nỗi đau đớn của Nguyễn Khuyến được bộc lộ trực tiếp: ông bàng hoàng, ngậm ngùi khi nghe tin bạn mất. Cảm giác mất mát khiến tác giả như rơi vào khoảng trống mênh mông, mọi vật xung quanh đều nhuốm màu tang thương. Qua tiếng khóc ấy, người đọc nhận ra tình bạn sâu sắc, tri kỷ giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê – không chỉ là bạn học, bạn đồng liêu mà còn là người bạn gắn bó suốt đời.

2. Hồi tưởng về kỷ niệm và sự gắn bó

– Khổ 3 và khổ 4:

+ Nhắc lại những kỷ niệm đẹp đẽ giữa hai người bạn.

+ Những lúc cùng nhau chia sẻ vui buồn, khó khăn trong cuộc sống.

+ Sự đồng cảm, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau.

=> Sau nỗi đau ban đầu, tác giả nhớ lại bao kỷ niệm đẹp của tình bạn. Đó là những tháng ngày cùng nhau ngâm vịnh, đàm đạo văn chương, cùng chia sẻ niềm vui và nỗi buồn trong cuộc sống. Mỗi kỷ niệm hiện lên đều chan chứa tình cảm, gợi lại sự đồng điệu và thấu hiểu giữa hai tâm hồn. Hồi tưởng ấy không chỉ làm nổi bật sự gắn bó của đôi bạn tri kỷ, mà còn khiến nỗi đau mất mát thêm phần day dứt.

3. Cảm giác cô đơn và trống vắng

– Khổ 5 và khổ 6:

+ Cảm giác cô đơn, lạc lõng khi không còn người bạn tri âm.

+ Sự trống vắng trong lòng, cảm giác như mất đi một phần của chính mình.

+ Nỗi nhớ nhung và luyến tiếc những ngày tháng đã qua.

=> Khi bạn đã đi xa, Nguyễn Khuyến cảm thấy cô đơn, trống vắng hơn bao giờ hết. Những thú vui thường ngày nay trở nên vô nghĩa: “Rượu ngon không có bạn hiền / Không mua, không phải không tiền không mua”. Ông như mất đi một nửa tâm hồn, không còn người để sẻ chia tri âm, tri kỷ. Nỗi nhớ thương bạn hòa quyện với sự luyến tiếc quá khứ, tạo nên âm hưởng buồn thương, ray rứt trong thơ.

4. Lòng tri ân và tôn kính bạn

– Khổ 7 và khổ 8:

+ Lời tri ân và tôn kính dành cho Dương Khuê.

+ Sự cảm thông, hiểu biết và đồng cảm giữa hai người bạn.

+ Tình bạn vĩnh cửu, vượt qua mọi thử thách của thời gian và không gian.

=> Ở những khổ thơ cuối, Nguyễn Khuyến dành cho bạn lời tri ân và tôn kính sâu nặng. Ông nhớ đến tài năng, nhân cách cao quý của Dương Khuê, đồng thời khẳng định tình cảm bạn bè thủy chung, son sắt. Tình bạn ấy, dù người đã khuất, vẫn còn mãi trong lòng nhà thơ, vượt lên trên mọi khoảng cách của thời gian và không gian.

III. Kết bài

– Tóm tắt lại những ý chính đã phân tích.

– Khẳng định giá trị nghệ thuật và tình cảm sâu sắc trong bài thơ “Khóc Dương Khuê”.

– Nhấn mạnh tình bạn tri kỷ, sự mất mát và lòng tri ân trong thơ Nguyễn Khuyến.

=> Khóc Dương Khuê không chỉ là tiếng khóc thương bạn của Nguyễn Khuyến, mà còn là bản tình ca bất hủ về tình bạn tri âm, tri kỷ trong văn học Việt Nam. Bài thơ mang giá trị nghệ thuật đặc sắc với lời thơ giản dị, cảm xúc chân thành, lay động lòng người. Qua đó, Nguyễn Khuyến đã khẳng định vẻ đẹp của tình bạn, đồng thời gửi gắm nỗi đau mất mát và lòng tri ân sâu sắc dành cho người bạn quá cố.

Bài văn mẫu phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) để lại khoảng 800 bài thơ chữ Nôm và chữ Hán trong đó có ngót một trăm bài thơ viết về tình bạn. Có bài như “Bạn đến chơi nhà” thì hầu như ai cũng biết. Viết về Dương Khuê (1839 – 1902) bạn chí thân của mình, Nguyễn Khuyến đã có bốn bài thơ chữ Hán. Riêng bài thơ thứ tư “Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư” (Viếng bạn đồng khoa là Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư) được tác giả dịch ra chữ Nôm thành bài “Khóc Dương Khuê”.

Đây là bài thơ khóc bạn rất tha thiết cảm động của Nguyễn Khuyến cũng là bài thơ khóc bạn rất nổi tiếng trong nền thơ ca dân tộc. Dương Khuê là bạn đồng khoa với Nguyễn Khuyến tại khoa thi Hương năm 1864. Dương Khuê đỗ tiến sĩ, làm quan to, để lại nhiều bài thơ hát nói tuyệt bút. Từ bạn đồng khoa đã phát triển thành bạn tri âm tri kỉ nên Nguyễn Khuyến mới có thơ khóc bạn cảm động và tha thiết như vậy. Có thể xem đây cũng là một bài văn tế được viết bằng thể thơ song thất lục bát, giọng thơ réo rắt thấm đầy lệ, gồm có 38 câu thơ. Hai câu thơ mở đầu:

Bác Dương thôi đã thôi rồi.

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”

Phong cách và bút pháp Nguyễn Khuyến vốn thâm thuý, cảm xúc lắng đọng. Tất cả nỗi đau mất bạn dường như dồn nén vào câu thơ lực bát mở đầu này. Dòng lục (Bác Dương thôi đã thôi rồi) ngắn gọn cất lên tiếng kêu thương đột ngột. Tin dữ về người bạn tri âm tri kỉ đến bất ngờ quá khiến cho Nguyễn Khuyến bàng hoàng, đau đớn và thất vọng. Biện pháp nghệ thuật nói giảm “thôi đã thôi rồi”, với từ “thôi” được lặp lại hai lần có tác dụng gợi nỗi đau đột ngột, sự thảng thốt, sự trống vắng không gì bù đắp nổi.

Dòng bát (Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta) dàn trải, diễn tả về sự mất mát đau thương ấy của Nguyễn Khuyến. Từ láy “man mác” đã diễn tả được cả không gian cũng nhuộm màu tang tóc. Có lẽ, lòng người đau đến quặn thắt như đứt ra từng khúc ruột “ngậm ngùi” nên nỗi đau ấy lan toả cùng mây trời non nước. Người bạn tri âm tri kỉ vừa ra đi làm cho nhà thơ thấy hẫng hụt, trống vắng đến khôn cùng.

Tác giả nhắc lại, nhớ lại những kỉ niệm sâu sắc với người đã quá cố. Với nhà nho thì bạn đồng khoa là bạn đẹp nhất, tự hào nhất. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng đỗ đạt, cùng làm quan, tình bạn ấy là “duyên trời” tác hợp nên:

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau.

Kính yêu từ trước đến sau,

Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời”

Các từ ngữ “sớm hôm”, “cùng nhau”, “từ trước đến sau” thể hiện một tình bạn vô cùng thân thiết, chung thuỷ. Mỗi một kỉ niệm là một mảnh tâm hồn của nhà thơ được nhắc lại với bao nhiêu giọt lệ. Nguyễn Khuyến như vẫn thấy Dương Khuê đang cùng mình hiển hiện. Phải là bạn tâm đầu ý hợp, phải là những tao nhân mặc khách mới có những kỉ niệm cầm ca, thi tửu đẹp và đáng nhớ như vậy.

Nhớ những cuộc du ngoạn, thăm thú nơi “dặm khách” chan hoà với thiên nhiên, thảnh thơi giữa chốn lâm tuyền: “Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo”. Nhớ những lần cùng nhau đi hát ả đào nơi lầu cao, thưởng thức cung đàn, giọng hát:

“Có khi từng gác cheo leo,

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang”

Nguyễn Khuyến và Dương Khuê không chỉ chuyên cần học tập mà hai người cùng có những thú vui thật tao nhã: cầm, kì, thi, hoạ… Tình bạn ấy thật trong sáng và cao đẹp. Đó là tình bạn của những nhà nho chân chính. Cả hai ông đều là những người chăm chỉ dùi mài kinh sử mong được ghi tên vào bảng vàng bia đá, lưu danh muôn thuở. Cả hai ông đều đậu đại khoa dưới triều Nguyễn. Với biết bao kỉ niệm êm đẹp như vậy nên khi nhận tin Dương Khuê mất tâm trạng nhà thơ thảng thốt và đau đớn đến bàng hoàng.

Có kỉ niệm vui, có kỉ niệm buồn. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng làm quan to dưới thời nhà Nguyễn. Nhưng rồi đất nước ta bị xâm lăng, dân tộc ta bị giặc Pháp thống trị, là kẻ sĩ, là nhà nho “cùng nhau hoạn nạn”. Cách ứng xử của mỗi người đểu có chỗ khác nhau. Nguyễn Khuyến đã cáo bệnh, từ quan về sống cuộc đời bình dị giữa xóm làng quê hương. Không tham miếng “đẩu thăng”, lương bổng của triều đình. Còn Dương Khuê vẫn làm quan. Trong bài thơ chữ Hán “Gửi thăm quan Thượng thư họ Dương”, Nguyễn Khuyến tỏ ra rất thông cảm với bạn: “Tôi biết bác vì cha mẹ phải làm quan để lấy tấm lụa – Bác biết tôi nghèo phải làm quan để kiếm đấu gạo lương”. Cảnh ngộ và cách ứng xử tuy có khác nhau, kẻ làm quan, người từ quan, nhưng Tam nguyên Yên Đổ vẫn tỏ ra bao dung bạn, vẫn “kính yêu từ trước đến sau”, không bao giờ thay lòng đổi dạ:

“Bác già tôi cũng già rồi,

Biết thôi, thôi thế, thì thôi, mới là”

Chữ “rồi” vần với ba chữ “thôi” liên tiếp như một tiếng thở dài, tự an ủi mình, như muốn quên đi thật nhanh những điều bất đắc chí. Không nỡ, không muốn nhắc đến nữa mới là bạn bè tâm giao! Lời than khóc trở nên xót xa khi nhà thơ nhắc lại điển tích Tử Kỳ – Bá Nha và Trần Phồn – Từ Trĩ. Chiếc giường dành riêng tiếp bạn nay đã trở nên “hững hờ”. Tiếng đàn cũng “ngẩn ngơ” mất hồn vì lẻ bạn. Một cách nói thậm xưng để cực tả nỗi đau tê tái khi bạn thân qua đời. Khi còn sống thì đôi bạn cùng đi chơi “dặm khách”, cùng “lựa chiều cầm xoang”, “rượu ngon cùng nhắp”, cùng “bàn soạn câu văn”… Lúc bạn qua đời chẳng còn người tri âm tri kỉ để cùng nhau uống rượu, làm thơ, nghe đàn, năng lui tới thăm nom, chia ngọt sẻ bùi cùng nhau. Nguyễn Khuyến đã có nhiều cách nói rất sâu sắc, cảm động diễn tả sự thương xót bạn và nỗi buồn cô đơn của mình.

Trải qua bao mưa nắng, bao thăng trầm hoạn nạn, Tam nguyên Yên Đổ còn đâu nhiêu nước mắt để khóc bạn, chí còn biết “lấy nhớ làm thương”. Tuy nhiên cả bài thơ, nhất là bốn câu kết đã “chứa chan” nước mắt đau xót. Hai câu thơ: “Bác chẳng ở dẫu vẫn chẳng ở – Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương” với cách diễn đạt trùng điệp và tăng cấp đã tạo nên giọng thơ buồn thê thiết, Nguyễn Khuyến để lại nhiều tiếng khóc: khóc cho đất nước và dân tộc, khóc vợ, khóc con, khóc bạn,… Tiếng khóc nào cũng xúc động, tê tái, nặng tình, nặng nghĩa. Riêng bài “Khóc Dương Khuê” lại được viết bằng thể thơ song thất lục bát, lời khóc bạn càng trở nên thiết tha, não nùng, lúc thì nức nở, thảng thốt, lúc thì kể lể thở than, lúc thì phân trần, lúc thì trách móc, lời thơ thủ thỉ như nói với người còn sống, rất cảm động. Giọng thơ liền mạch, lời thơ tinh tế, biểu cảm đã thể hiện nghệ thuật vừa bình dị, vừa điêu luyện.

Qua bài thơ, ta thấy Nguyễn Khuyến không chỉ là người tài cao học rộng mà còn là người rất nghĩa tình. Ông thuỷ chung trong tình bạn. Tình cảm đối với bạn của tác giả thật đáng trân trọng, đáng cho chúng ta học tập.

 

 

5/5 - (1 bình chọn)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *