Đề bài: Phân tích bài thơ “Miền Trung” của Hoàng Trần Cương
MIỀN TRUNG
Miền Trung
Câu ví dặm nằm nghiêng
Trên nắng và dưới cát
Đến câu hát cũng hai lần sàng lại
Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm.
Miền Trung
Bao giờ em về thăm
Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt
Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ
Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ
Không ai gieo mọc trắng mặt người.
Miền Trung
Eo đất này thắt đáy lưng ong
Cho tình người đọng mật
Em gắng về
Đừng để mẹ già mong…
(Trích Miền Trung, Hoàng Trần Cương, Thơ hay Việt Nam thế kỷ
XX, NXB Văn hóa Thông tin, 2006, tr. 81 – 82)
Dàn ý NLVH Phân tích bài thơ “Miền Trung” của Hoàng Trần Cương
Mở bài
Nhà thơ Hoàng Trần Cương (1948 – 2020) sinh ra ở Nghệ An, nhưng lớn lên tại Hà Nội. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu viết về thiên nhiên và con người miền Trung với những vần thơ sâu lắng, đậm chất trữ tình.
Bài thơ “Miền Trung” được trích từ trường ca “Trầm tích”, ban đầu là một bài thơ độc lập, sau này được tác giả đưa vào chương cuối của tác phẩm. Đây là bài thơ đặc sắc, thể hiện rõ nét vẻ đẹp thiên nhiên và con người miền Trung. Đoạn trích trong đề bài nằm ở phần cuối của bài thơ, đúc kết những cảm xúc và suy tư của tác giả về mảnh đất này.
Nhà thơ Hoàng Trần Cương, một người con xứ Nghệ nhưng gắn bó với Hà Nội từ nhỏ, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả qua những vần thơ nặng tình với quê hương. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là “Miền Trung”, bài thơ nằm trong chương cuối của trường ca “Trầm tích”. Được sáng tác năm 1990, tác phẩm không chỉ khắc họa thiên nhiên khắc nghiệt của dải đất miền Trung mà còn tôn vinh những con người lam lũ, bền bỉ vượt lên gian khó. Đoạn trích trong đề bài là những dòng thơ chan chứa cảm xúc, nơi tác giả vừa gửi gắm lòng thương cảm sâu sắc vừa bày tỏ niềm tự hào về quê hương.
Thân bài
Khái quát về bài thơ và đoạn trích
Bài thơ được sáng tác vào năm 1990, thuộc thể thơ tự do với kết cấu sáu khổ thơ, trong đó đoạn trích là ba khổ cuối. Nội dung chính của bài thơ là tái hiện một miền Trung khắc nghiệt với “nắng cháy trời, mưa dầm đất”, nhưng con người nơi đây vẫn kiên cường, chịu thương chịu khó. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp con người miền Trung mà còn gửi gắm tình yêu, sự đồng cảm sâu sắc của tác giả với vùng đất này.
Phân tích nội dung và nghệ thuật
1. Thiên nhiên miền Trung khắc nghiệt
Hình ảnh “Câu ví dặm nằm nghiêng/ Trên nắng và dưới cát” mở đầu đoạn trích bằng một cảnh tượng vừa chân thực vừa đầy sức gợi. Miền Trung hiện lên với cái nắng gay gắt và cát trắng trải dài. Thiên nhiên nơi đây không hiền hòa mà dữ dội, vắt kiệt sức sống của con người.
Sự khắc nghiệt ấy còn được nhấn mạnh qua hình ảnh “Đến câu hát cũng hai lần sàng lại/ Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm”. Câu hát ví dặm vốn nhẹ nhàng, sâu lắng, vậy mà cũng phải chịu sự vùi dập, lọc sàng bởi thiên nhiên khắc nghiệt. Điều này không chỉ thể hiện gian khó của vùng đất này mà còn khơi gợi sự day dứt, trăn trở trong lòng người đọc.
2. Cuộc sống khốn khó của con người miền Trung
Những câu thơ tiếp theo gợi lên cảnh sống thiếu thốn, vất vả: “Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt/ Lúa con gái mà gầy còm của đỏ”. Ngay cả những loài cây bình thường cũng không thể phát triển trọn vẹn, huống hồ là cuộc sống của con người. Hình ảnh “gió bão tốt tươi như cỏ/ Không ai gieo cũng mọc trắng mặt người” càng tô đậm sự khắc nghiệt của thiên nhiên, nơi mà chỉ có thiên tai là tràn lan, sinh sôi mà không ai mong muốn.
3. Con người miền Trung – Kiên cường và giàu tình nghĩa
Bất chấp thiên nhiên khắc nghiệt, con người miền Trung vẫn giữ được tình nghĩa son sắt. Hình ảnh “Cho tình người đọng mật lại” thể hiện sự chắt chiu, bền bỉ trong từng giọt yêu thương của con người nơi đây. Dù cuộc sống vất vả, họ vẫn giàu tình cảm, thủy chung, gắn bó với quê hương.
Câu thơ “Em gắng về/ Đừng để mẹ già mong…” vừa là lời nhắc nhở những người con xa quê, vừa thể hiện sự trân trọng đối với cội nguồn. Miền Trung không chỉ là một vùng đất, mà còn là nơi lưu giữ bao tình cảm, bao kỷ niệm không thể quên.
4. Nghệ thuật đặc sắc của đoạn thơ
– Thể thơ tự do giúp tác giả linh hoạt trong biểu đạt cảm xúc, khi thì lắng đọng, khi thì da diết, trăn trở.
– Hình ảnh thơ giàu sức gợi, vừa cụ thể vừa ẩn dụ, khiến người đọc cảm nhận rõ nét sự khắc nghiệt của miền Trung và tình người ấm áp nơi đây.
– Điệp từ “miền Trung” nhấn mạnh tình cảm sâu đậm của tác giả dành cho quê hương.
– Sử dụng ẩn dụ tinh tế như “mồng tơi không kịp rớt”, “lúa con gái mà gầy còm của đỏ” để lột tả cảnh nghèo khó nhưng cũng đầy nghị lực của con người miền Trung.
Kết bài
-Khái quát
Bài thơ “Miền Trung” không chỉ vẽ nên bức tranh thiên nhiên khắc nghiệt với nắng, gió, bão lũ mà còn khắc họa vẻ đẹp kiên cường, giàu tình nghĩa của con người nơi đây. Qua đó, nhà thơ Hoàng Trần Cương đã gửi gắm nỗi niềm thương nhớ và sự trăn trở đối với mảnh đất quê hương. Đọc xong đoạn thơ, ta không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp mộc mạc mà sâu lắng của miền Trung mà còn thêm thấu hiểu, trân trọng những con người chân chất, giàu nghị lực của vùng đất này. Dẫu cuộc sống có vất vả, nhưng tình người nơi đây vẫn đậm đà như giọt mật lắng lại qua bao thăng trầm của thời gian.
Bài văn mẫu NLVH Phân tích bài thơ “Miền Trung” của Hoàng Trần Cương
Bài văn mẫu 1
Hoàng Trần Cương là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Sinh ra ở miền Trung, ông đã dành trọn tâm huyết để viết về vùng đất này bằng những câu thơ giàu hình ảnh và cảm xúc. Trong đó, bài thơ “Miền Trung” trích từ trường ca “Trầm tích” là một tác phẩm nổi bật, thể hiện sâu sắc tình yêu, nỗi đau và niềm tự hào về miền Trung khắc nghiệt nhưng giàu tình nghĩa.
Ngay từ những câu thơ đầu tiên, hình ảnh miền Trung hiện lên với những đặc điểm rất riêng, gắn liền với thiên nhiên khắc nghiệt:
“Miền Trung
Câu ví dặm nằm nghiêng
Trên nắng và dưới cát
Đến câu hát cũng hai lần sàng lại
Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm.”
Hình ảnh “câu ví dặm nằm nghiêng” gợi lên nét văn hóa đặc trưng của vùng đất này. Dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh không chỉ là loại hình nghệ thuật mà còn là tiếng lòng, là linh hồn của người dân nơi đây. Từ “nằm nghiêng” mang đến cảm giác chênh vênh, gợi sự bấp bênh của cuộc sống giữa thiên nhiên khắc nghiệt. Không chỉ thiên nhiên đầy nắng gió, mà đến cả câu hát – biểu tượng của niềm vui – cũng phải “hai lần sàng lại”, như một cách để gạn lọc, giữ lại những gì tinh túy nhất. Câu thơ vừa gợi tả sự chắt chiu, tần tảo của người miền Trung, vừa gợi lên những nỗi niềm day dứt khôn nguôi.
Tác giả tiếp tục khắc họa chân thực hình ảnh một miền Trung khắc nghiệt qua những câu thơ đầy ám ảnh:
“Miền Trung
Bao giờ em về thăm
Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt
Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ
Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ
Không ai gieo mọc trắng mặt người.”
Hình ảnh “mồng tơi không kịp rớt” gợi lên sự khô cằn đến cực độ, đến mức một loại cây vốn xanh tốt, dễ mọc như mồng tơi cũng không đủ thời gian để sinh sôi. “Lúa con gái” – một hình ảnh thường gợi lên sự mềm mại, xanh tươi – nhưng ở đây lại “gầy còm úa đỏ”, như một sự tương phản đầy xót xa. Đặc biệt, câu thơ “Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ” mang đậm nét châm biếm đau đớn, vì trong khi cây lúa, cây mồng tơi không thể phát triển thì chỉ có bão tố là tràn trề sức sống, quét qua miền Trung như một lẽ tất yếu của thiên nhiên. Chính những hình ảnh ấy đã thể hiện đầy đủ sự nhọc nhằn mà con người nơi đây phải gánh chịu qua bao thế hệ.
Bên cạnh thiên nhiên khắc nghiệt, bài thơ còn khắc họa một miền Trung giàu tình nghĩa, nơi tình người kết tinh thành những giá trị vững bền:
“Miền Trung
Eo đất này thắt đáy lưng ong
Cho tình người đọng mật
Em gắng về
Đừng để mẹ già mong…”
“Eo đất thắt đáy lưng ong” là một hình ảnh ẩn dụ đầy tinh tế. Đó không chỉ là đặc điểm địa lý của miền Trung mà còn gợi lên hình ảnh người phụ nữ Việt Nam chịu thương chịu khó, hy sinh vì gia đình. Trong gian khó, con người miền Trung vẫn giữ trọn vẹn tình cảm sâu nặng, ngọt ngào như “mật”. Tình yêu thương, sự gắn bó bền chặt chính là điểm tựa tinh thần giúp người dân nơi đây vượt qua bao khắc nghiệt. Câu thơ cuối “Đừng để mẹ già mong” khép lại bài thơ với một nỗi niềm tha thiết, như một lời nhắc nhở về đạo hiếu, về sự trở về nguồn cội.
Bài thơ “Miền Trung” không cầu kỳ hoa mỹ mà lại chắt lọc trong từng câu chữ. Tác giả sử dụng nhiều hình ảnh đối lập giữa thiên nhiên và con người để làm nổi bật sự gian lao nhưng cũng đầy kiêu hãnh của mảnh đất này. Giọng thơ bộc trực, mạnh mẽ nhưng vẫn chứa đựng biết bao trầm tư, xúc cảm. Chính cách diễn đạt gần gũi, chân thực ấy đã khiến bài thơ “Miền Trung” đi sâu vào lòng người đọc.
Bài thơ “Miền Trung” của Hoàng Trần Cương là một áng thơ đậm chất tự sự, vừa xót xa, vừa tự hào về mảnh đất khắc nghiệt nhưng đầy kiên cường. Từ những hình ảnh thiên nhiên khô cằn đến những con người thủy chung, tình nghĩa, tất cả đã hòa quyện tạo nên một miền Trung vừa dữ dội vừa đằm thắm. Qua bài thơ, người đọc không chỉ hiểu thêm về mảnh đất này mà còn cảm nhận được tình yêu sâu sắc của tác giả dành cho quê hương. Chính nhờ những vần thơ như thế mà miền Trung, dù khắc nghiệt đến đâu, vẫn luôn in sâu trong tâm khảm mỗi người con xa xứ.
Bài văn mẫu 2
Hoàng Trần Cương là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Sinh ra và lớn lên ở miền Trung, ông đã dành nhiều tâm huyết để viết về vùng đất này, nơi gió Lào bỏng rát, mưa bão triền miên nhưng cũng là miền quê thấm đẫm nghĩa tình. Trong số những tác phẩm của ông, bài thơ “Miền Trung” trích từ trường ca “Trầm tích” đã khắc họa rõ nét vẻ đẹp và nỗi gian truân của dải đất miền Trung đầy khắc nghiệt nhưng kiên cường.
Ngay từ những câu thơ đầu tiên, hình ảnh miền Trung hiện lên chân thực, gắn liền với thiên nhiên khô cằn và những nét văn hóa đặc trưng:
“Miền Trung
Câu ví dặm nằm nghiêng
Trên nắng và dưới cát
Đến câu hát cũng hai lần sàng lại
Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm.”
Câu hát ví dặm – nét văn hóa đặc sắc của vùng đất Nghệ Tĩnh – xuất hiện trong thơ không chỉ như một biểu tượng nghệ thuật, mà còn mang theo cả nỗi niềm và cuộc sống vất vả của con người nơi đây. “Nằm nghiêng” gợi cảm giác chông chênh, trắc trở, cũng giống như số phận của bao kiếp người miền Trung, phải oằn mình trước thiên nhiên khắc nghiệt. Câu hát dù giản dị nhưng cũng phải “hai lần sàng lại”, như cách con người nơi đây chắt chiu từng điều quý giá giữa những thiếu thốn, nhọc nhằn.
Hình ảnh thiên nhiên tiếp tục hiện lên với những nét chân thực, vừa đau xót, vừa ám ảnh:
“Miền Trung
Bao giờ em về thăm
Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt
Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ
Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ
Không ai gieo mọc trắng mặt người.”
Chỉ bằng vài nét vẽ, tác giả đã dựng lên một miền Trung khô cằn, khắc nghiệt đến nao lòng. “Mồng tơi không kịp rớt” – một hình ảnh rất đỗi giản dị nhưng lại gợi lên sự khô hạn khắc nghiệt đến mức ngay cả một loài rau dễ mọc cũng không thể sinh sôi. “Lúa con gái” thường gợi lên sự trù phú, tươi tốt, nhưng trong câu thơ lại trở nên “gầy còm úa đỏ”, như chính người dân miền Trung, quanh năm vật lộn với thiên nhiên mà vẫn lam lũ, khổ cực. Ấn tượng nhất là câu thơ “Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ”, một cách so sánh đầy xót xa khi bão lũ hoành hành lại là thứ duy nhất phát triển mạnh mẽ, trong khi con người vẫn đang oằn mình chống chọi.
Dù thiên nhiên khắc nghiệt, miền Trung vẫn là mảnh đất của tình người đằm thắm. Điều đó được thể hiện qua những câu thơ sau:
“Miền Trung
Eo đất này thắt đáy lưng ong
Cho tình người đọng mật
Em gắng về
Đừng để mẹ già mong…”
Miền Trung như một người phụ nữ chịu thương chịu khó, mảnh mai nhưng kiên cường. “Thắt đáy lưng ong” không chỉ gợi hình ảnh một eo đất nhỏ hẹp mà còn ẩn dụ về những con người giàu nghị lực, dù gian khổ vẫn giữ được phẩm chất đáng quý. Giữa biết bao nhọc nhằn, tình cảm con người vẫn vẹn nguyên, “đọng mật” như chính cái tình son sắt của người dân nơi đây.
Bài thơ không chỉ là lời tự sự về quê hương mà còn chứa đựng biết bao cảm xúc của nhà thơ dành cho mảnh đất chôn nhau cắt rốn. Vẻ đẹp của miền Trung không chỉ nằm ở những hình ảnh thiên nhiên, mà còn lắng đọng trong tình người sâu sắc. Chính những vần thơ như thế đã làm nên một miền Trung vừa dữ dội, vừa đầy yêu thương trong trái tim người đọc.
Bài văn mẫu 3
Hoàng Trần Cương là một trong những nhà thơ hiện đại viết nhiều về miền Trung với một tình cảm da diết. Sinh ra từ vùng đất gió Lào cát trắng, ông hiểu hơn ai hết nỗi gian truân của người dân nơi đây. Bài thơ “Miền Trung” trích từ trường ca “Trầm tích” đã khắc họa rõ nét hình ảnh một miền Trung đầy khắc nghiệt nhưng cũng thấm đẫm tình người, khiến bất cứ ai đọc cũng không khỏi bồi hồi xúc động.
Những câu thơ mở đầu đã gợi lên hình ảnh một miền Trung mộc mạc, đầy nắng gió:
“Miền Trung
Câu ví dặm nằm nghiêng
Trên nắng và dưới cát
Đến câu hát cũng hai lần sàng lại
Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm.”
Dân ca ví dặm từ lâu đã là tiếng lòng của người dân Nghệ Tĩnh, nhưng trong thơ Hoàng Trần Cương, câu hát ấy dường như cũng mang nỗi nhọc nhằn của vùng đất này. “Nằm nghiêng” là một hình ảnh gợi lên sự chông chênh, như chính cuộc đời của bao người dân miền Trung, luôn phải gánh chịu những thử thách khắc nghiệt từ thiên nhiên. “Hai lần sàng lại” không chỉ nói về sự chắt chiu trong từng lời ca, mà còn gợi lên nếp sống cần kiệm, chịu thương chịu khó của con người nơi đây.
Những câu thơ tiếp theo càng làm nổi bật sự khắc nghiệt ấy:
“Miền Trung
Bao giờ em về thăm
Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt
Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ
Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ
Không ai gieo mọc trắng mặt người.”
Những hình ảnh “mồng tơi không kịp rớt”, “lúa con gái mà gầy còm úa đỏ” khiến người đọc không khỏi chạnh lòng. Đất đai khô cằn đến mức ngay cả loại rau dễ sống như mồng tơi cũng không kịp lớn, còn cây lúa thì yếu ớt, úa vàng vì thiếu nước, thiếu phù sa. Giữa cảnh thiên nhiên ấy, bão lũ lại trở thành thứ sinh trưởng mạnh nhất, như một quy luật đầy cay đắng của miền Trung.
Tuy gian khó là vậy, nhưng con người miền Trung lại giàu tình nghĩa, bền bỉ và thủy chung. Điều đó được thể hiện rõ qua những câu thơ sau:
“Miền Trung
Eo đất này thắt đáy lưng ong
Cho tình người đọng mật
Em gắng về
Đừng để mẹ già mong…”
Miền Trung nhỏ bé trên bản đồ, nhưng tình người nơi đây thì bao la rộng lớn. “Eo đất thắt đáy lưng ong” không chỉ gợi lên đặc điểm địa lý mà còn tượng trưng cho sự chịu đựng, kiên cường của người dân miền Trung. Trong gian khó, họ vẫn giữ được tấm lòng đôn hậu, yêu thương, như “mật” kết tinh từ bao gian lao. Và câu thơ “Đừng để mẹ già mong” là một lời nhắc nhở đầy tha thiết về tình cảm gia đình, về nỗi nhớ quê hương day dứt trong lòng những người con xa xứ.
Bài thơ “Miền Trung” không chỉ khắc họa một vùng đất khắc nghiệt, mà còn là bức tranh đầy cảm xúc về con người miền Trung – gian khổ nhưng đầy kiêu hãnh, vất vả nhưng không mất đi sự thủy chung, tình nghĩa. Những vần thơ của Hoàng Trần Cương không hoa mỹ nhưng thấm đẫm tình yêu quê hương, khiến bất cứ ai đọc cũng phải bồi hồi xúc động.