📘 Tải 100+ tài liệu nghị luận văn học, 100+ đề thi học sinh giỏi ... chỉ 1 Click

Phân tích đánh giá nghệ thuật tự sự trong đoạn trích truyện Giận ông giời

ĐỀ 1: Phân tích, đánh giá nghệ thuật tự sự trong đoạn trích truyện “Giận ông giời” của Nguyễn Khải:

Ông Quải như chả chú ý tới những nghi ngờ của vợ về một ông khách mới quen lại quá tò mò. Ông vẫn tiếp tục kể cho tôi nghe những năm tháng đầu tiên ông trở về nhà sống với một người bố đã già đã yếu và hai đứa con còn nhỏ dại. Về được hai năm thì bố chết, đưa bố ra đồng xong về nhà vét voi không được vài ống gạo. Trời mưa trong nhà như ngoài sân mới vay tiền mua trăm ngói, mà mua cũng khó khăn lắm, trèo lên cào mùn gianh rồi úp tạm ngói lên chống dột. Năm sau thì cưới vợ là bà nhà tôi bây giờ. Nhà đã khó nay lại đẻ thêm con đỏ nên càng khó. Bằng tuổi tôi người ta thì bồng cháu, mình tóc đã muối tiêu còn bồng con nhỏ là rất nghịch cảnh. Cũng may bà nhà tôi tháo vát, lại rất thương chồng và con chồng, khó đến mấy cũng chỉ cười. Mấy đứa con tôi cũng học được cái tính của bà ấy nên cái nhà này không vì túng thiếu mà to tiếng với nhau. Chỉ có tôi là hay to tiếng thôi, quát tháo ầm ỹ một lúc không có ai đối lời lại, tự mình cũng ngượng với mình rồi câm miệng luôn. Cả làng này biết tính tôi nên chả ai nỡ giận. “Mình làm khổ mình đã đủ còn ai nỡ giận mình nữa.” Nói rồi lại cười, từ lúc ngồi trò chuyện với tôi ông cũng hay cười. Cười được cũng vơi nhẹ cái buồn cái tức đi nhiều lắm. Mươi năm trở lại đây nhà ông không phải lo đến miếng ăn nữa. Nhưng ông vẫn chỉ ăn cơm với dưa với mắm, đụng đũa vào cá rán, cá nấu, thịt gà, trứng vịt là nôn ói liền. Cái “không bằng người” ấy chả quy lỗi cho ai được, chỉ tại cái trò chơi khăm của ông giời đó thôi. Nhưng nhìn quanh thì vẫn không bằng  người, người ta làm được nhà gác thì ông mới chuẩn bị làm lại cái nhà đang ở, người ta đi xe máy thì bố con ông mới có cái xe đạp Trung Quốc. Vẫn là thua người, tính toán trí lực hơn người mà thua mưu cả đứa trẻ nên càng tức. Ông kể: “Mấy năm nọ cả xã này đổ xô đi buôn long nhãn, nhiều người xây được nhà gác là nhờ cái đận ấy đấy. Tôi cũng buôn. Long nhãn của nhà được vài tạ, mua vào gần hai tấn nữa. Lúc mua có 100, 105 ngàn một ký. Giá lên 110, 115 ngàn vẫn không bán vì đám buôn đồ chừng phải lên đến 120, 125. Nào ngờ nó lại tụt dần xuống, tụt xuống rồi lại lên, cái trò cung cầu của cơ chế thị trường nó ưỡn ẹo đồng bóng lắm, gan thì được, nhát thì thua. Thi gan thì nhất tôi rồi. Đánh nhau mười năm với Mỹ không gan có mà chết sớm. Cái sống chết ở chiến trường có thể gan tới cùng, với lại chỉ có một mình mình đối mặt với cái chết, đòm một phát, coi như xong, chả bận bịu tới ai cả. Đằng này là cái no cái đói; sau lưng mình còn một bầy thê tử họ lại không muốn bị đói mãi nên chỉ dám gan đến cái mức nào đó thôi, rồi đành thở dài chịu thua vậy. Mua hơn 100 ngàn, bán có 65, 62 ngàn, lỗ non nửa. Đã bảo giời tính mà, ông giời không cùng phe với mình làm sao không thua. Sau lần thua lỗ ấy, lỗ non chục triệu chứ đâu có ít, tôi lại khăn gói ra Quảng Ninh gánh than, được thêm đồng nào hay đồng ấy. Ông tính, một buổi gánh ba chuyến than, gánh từ 70 cân trở lên, chạy một đoạn đường ba bốn cây số, một ngày trừ ăn uống rồi cũng giắt lưng được ba chục ngàn, ấy là đã phải trả tiền bãi mất năm ngàn. Một năm gánh than, ăn đường ngủ chợ, về đến nhà đến vợ con cũng không nhận ra nhưng trả xong nợ. Coi như mất hai năm không thêm đồng nào, mọi sự chi tiêu đều trông vào hạt thóc. Mất toi hai năm mà tuổi đã trên năm mươi rồi, thế là lại gắt, chỉ dám gắt với vợ với con, tức ông giời chưa chịu buông tha mình, hờn dỗi với giời mà gắt. Còn năm nay tôi lại bị thua lỗ một lứa lợn. Thua đau lắm, gói bạc trong tầm tay, đã tính toán mọi việc trong cái số bạc chắc chắn sẽ có ấy mà rồi vẫn bị ông giời giựt mất, ông bảo có hận không? Giá lợn đầu năm 10 ngàn một ký móc hàm, sau xuống 7 ngàn, rồi lại có tin đồn lợn đang bị dịch, ăn vào có khi mắc bệnh như bệnh bò điên ở bên Tây, nên giá lại càng hạ. Cám thì đắt, thịt lại rẻ, không bán vội có mà sạt nghiệp.”.

(Trích “Giận ông giời”, Nguyễn Khải, https://nhandan.vn/gian-ong-gioi-truyen-ngan-cua-nguyen-khai-post408195.html).

Bài làm:

  1. Mở bài:

VD: Nguyễn Khải là cây bút văn xuôi nổi bật nửa cuối thế kỉ XX ở Việt Nam. Ông có nhiều sáng tác ấn tượng trong các thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký sự, kịch,… với khả năng phát hiện vấn đề, phân tích tâm lý nhân vật và giọng văn đôn hậu, trầm lắng, chiêm nghiệm. Trong đó, “Giận ông trời” là một truyện ngắn tiêu biểu. Không chỉ có giá trị về mặt tư tưởng, tác phẩm còn đặc sắc về nghệ thuật tự sự. Đoạn trích từ “Ông Quải như chả chú ý tới những nghi ngờ” đến “không bán vội có mà sạt nghiệp” đã biểu hiện rõ tài năng độc đáo của nguyễn Khải trong cách kể, cách trần thuật câu chuyện một cách ấn tượng.

  1. Thân bài:

1) Phạm vi phản ánh, cấu trúc của tác phẩm:

Đầu tiên, về phạm vi phản ánh, đoạn trích mang tính chất điển hình của một tác phẩm truyện ngắn. Truyện không khái quát những chuỗi sự kiện rộng lớn mà chỉ tập trung vào một vài sự kiện nhỏ trong cuộc đời của nhân vật ông Quải như những lát cắt, khoảnh khắc nhỏ của đời sống. Đó là sự kiện ông Quải trở về từ chiến tranh, phải đối diện với những nỗi lo toan của cuộc sống thường nhật, ông phải đi buôn long nhãn, rồi gánh than ở Quảng Ninh, ông về buôn lợn nhưng vẫn không khấm khá… Những câu chuyện tủn mủn đó làm nổi bật cuộc sống mưu sinh vất vả, khó nhọc của ông Quải để nuôi gia đình. Cấu trúc đoạn trích được kể một cách tự nhiên, tuyến tính theo kiểu trần thuật truyền thống. Đoạn trích bắt đầu từ sự kiện ông Quải trở về từ chiến tranh, phải đối diện với nghịch cảnh “sống chung với một người bố đã già yếu và hai đứa con còn nhỏ dại”, tiếp đó là những cuộc làm ăn thất bại của ông. Các nhân vật trong gia đình ông Quải được giới thiệu một cách rành rọt, tường tận, chi tiết: vợ (bà nhà tôi), các con. Các sự kiện theo trật tự thời gian được đánh dấu bởi những cụm từ “năm sau”, “về được hai năm”, “khoảng mươi năm này”…

2) Xây dựng tình huống truyện:

Đoạn trích xây dựng cốt truyện tự nhiên, xoay quanh nhân vật ông Quải là nhân vật trung tâm của câu chuyện, bên cạnh đó có sự xuất hiện của những nhân vật ngoại biên là vợ con ông Quải, “tôi” – người chứng kiến và kể câu chuyện… Các tuyến nhân vật này làm hiện lên bức tranh sinh động, chân thực như cuộc sống đời thường của tác phẩm. Đặc biệt, đoạn trích tập trung khắc họa một tình huống khá ấn tượng: tình huống ông Quải là người thành công, gan dạ trong chiến tranh, nhưng khi trở về đời thường thì liên tiếp gặp thất bại trong kinh doanh, phải nhẫn nhục trong cảnh sống thiếu thốn, trăn trở về miếng ăn của vợ con. Đây là một tình huống vừa éo le, bi kịch, nói lên bất hạnh chung của đời những người lính, vừa là một tình huống tự nhiên, hợp lẽ bởi cuộc sống luôn vận động không ngừng, không ai hoàn hảo. Chúng ta phải chấp nhận một thực tế rằng: những người lính dù vĩ đại, bất khuất trên chiến trường bao nhiêu thì họ vẫn chỉ là một cá nhân nhỏ bé giữa đời thường, cũng phải tập cách đối diện với khó khăn, vất vả mưu sinh. Chiến trường chỉ dạy cho họ cách cầm súng, cách liều mình xông trận để đạt được lí tưởng, còn đời thường dạy họ phải nhẫn nhục, chịu đựng, chịu thương chịu khó, khôn ngoan tính toán, hiểu rõ thương trường, cũng chưa chắc giành được quả ngọt. Đó là thực tế tàn nhẫn mà chua chát của cuộc sống – một cuộc sống biến động không nằm trong tầm kiểm soát của ta. Tuy nhiên, tình huống truyện cũng đã làm nổi bật được tính cách, phẩm chất đáng quý của ông Quải: linh hoạt nắm bắt cơ hội, chăm chỉ, cần mẫn và biết lo toan cho gia đình. Trong chiến tranh, ông là rường cột của đất nước, về thời bình, ông là trụ cột của gia đình.

3) Người kể chuyện:

Câu chuyện được kể ở ngôi thứ nhất, người kể chuyện xưng “tôi” là một “ông khách mới quen” được ông Quải kể lại câu chuyện cuộc đời mình. Cách trần thuật từ ngôi thứ nhất luôn tạo cảm giác là người trong cuộc, tính chân thực của truyện kể trở nên xác tín hơn. Điểm nhìn ngôi thứ nhất có khả năng nhất phiến, chủ quan, nhưng ở đây, tác giả đã kết hợp với điểm nhìn của chính ông Quải để khiến câu chuyện có tính khách quan hơn trong lời kể. Điểm nhìn trần thuật vì vậy cũng có sự linh hoạt cả bên ngoài lẫn bên trong nội tâm nhân vật. Các hành động, lời nói và mối quan hệ của ông Quải được hiện lên chân thực, rõ ràng, làm nổi bật tính chất thực tế của câu chuyện. Không chỉ vậy, điều đáng quan tâm là thế giới nội tâm bên trong, những suy nghĩ, nhận thức, trăn trở của ông Quải được tác giả khắc họa rất chi tiết. Từ những va đập của cuộc sống xung quanh, thế giới nội tâm của ông Quải hiện lên đa diện, phức tạp đầy ấn tượng. Hình thức trần thuật nửa trực tiếp – tác giả nhập thân vào nhân vật đã góp phần xây dựng thế giới nội tâm đó. Ông Quải có những trăn trở rất bình dị. Đầu tiên, ông trăn trở về cảnh ngộ đặc biệt của gia đình mình: “Bằng tuổi tôi người ta thì bồng cháu, mình tóc đã muối tiêu còn bồng con nhỏ là rất nghịch cảnh”. Người xưa thường quan niệm rằng: tuổi già, con khôn lớn là nhà có phúc, đằng này ông Quải đã có tuổi, đã không được hưởng cái nhàn nhã của tuổi già, lại còn phải đèo bòng nuôi con. Đó là một nỗi thiệt thòi, là một sự vất vả trong cuộc đời người lính. Họ đã dành cả thanh xuân cho chiến trường, đến lúc về già mới được làm tròn bổn phận của cha mẹ. Nhưng ông Quải vẫn nhận ra cái may mắn mình có được: “bà nhà tôi tháo vát, lại rất thương chồng và con chồng, khó đến mấy cũng chỉ cười. Mấy đứa con tôi cũng học được cái tính của bà ấy nên cái nhà này không vì túng thiếu mà to tiếng với nhau”. Đó là sự tích cực, lạc quan ngay cả trong hoàn cảnh “nghịch lí” nhất. Bên cạnh ông đã có một gia đình ấm áp, tuy nghèo nhưng yêu thương nhau. Đó là động lực giúp ông vượt qua tất cả khó khăn để sinh tồn, bảo vệ, hoàn thành trách nhiệm của mình. Đặc biệt, ông cũng nhận thức rất rõ về bản thân: “Chỉ có tôi là hay to tiếng thôi,… Cả làng này biết tính tôi nên chả ai nỡ giận. Mình làm khổ mình đã đủ còn ai nỡ giận mình nữa”. Cách bộc bạch suy nghĩ của ông Quải thật dễ khiến người ta đồng cảm, thương tình. Ông vừa chỉ ra những cái chưa được của mình, vừa bao biện cho chính mình một cách đáng yêu. Trong cái khổ, đôi khi con người thường mất đi lí trí, sự bình tĩnh mà nóng giận với người khác. Bản tính tự nhiên này là một điều có thể thông cảm được. Hơn nữa, qua cách tự “lột trần” chính mình của ông Quải đã khiến người đọc cảm nhận đây là một con người hiền lành, thật thà, chân chất đáng quý. Vậy không có lí do gì khiến ta phải trách cứ, chê cười ông Quải cả.

Đặc biệt, nỗi trăn trở đáng chú ý nhất của ông Quải là nỗi trăn trở về sự thua thiệt, thất bại ở chiến trường cơm áo gạo tiền. Ông buồn bã nghĩ ngợi: “Đánh nhau mười năm với Mỹ không gan có mà chết sớm. Cái sống chết ở chiến trường có thể gan tới cùng, với lại chỉ có một mình mình đối mặt với cái chết, đòm một phát, coi như xong, chả bận bịu tới ai cả. Đằng này là cái no cái đói; sau lưng mình còn một bầy thê tử họ lại không muốn bị đói mãi nên chỉ dám gan đến cái mức nào đó thôi, rồi đành thở dài chịu thua vậy”. Rõ ràng, đó vừa là ý thức tự trọng của một người lính, vừa là ý thức trách nhiệm của một người trụ cột gia đình. Sử dụng cách nói so sánh đối lập, ông Quải khẳng định: gan dạ là một phẩm chất của người lính nhưng chưa chắc đã là hữu dụng đối với người thường. Trong chiến tranh, người lính sống chết với lý tưởng, họ không sợ mưa bom, bão đạn, sẵn sàng hi sinh thân mình cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Còn sau chiến tranh, họ vẫn phải tiếp tục “gan dạ” để đối mặt với gánh nặng áo cơm, cuộc sống mưu sinh nhọc nhằn. Nhưng lúc bấy giờ, định nghĩa về sự “gan dạ” trong ông đã đổi khác. Ông còn phải chăm lo cho mấy miệng ăn trong gia đình nên ông không thể làm liều, bất chấp tất cả như trước đây nữa. Rõ ràng, cuộc chiến mưu sinh thời bình là một cuộc chiến còn lớn lao hơn cả thời chiến. Ở đó, con người phải “biết sợ”, biết chừng mực, giới hạn, phải biết nghĩ cho người khác trước khi nghĩ đến mình, không phải cứ liều lĩnh là sẽ đạt được mong muốn. Đó mới là điều thực khó! Như vậy, qua lời tâm sự của ông Quải, chúng ta nhận thức được đầy đủ, toàn vẹn hơn về hình tượng người lính: hóa ra họ cũng là những con người bình thường với nỗi sợ và sự bất lực tầm thường. Có những thứ con người không thể làm chủ, khắc phục hoàn cảnh. Con người luôn phải chịu sự chi phối nghiệt ngã của cuộc đời, kể cả họ có vĩ đại đến đâu. Đó cũng chính là cái nhìn nhân văn của tác giả đối với nhân vật của mình. Ông Quải đau khổ vì đó là trò đùa của tạo hóa “ông giời chưa chịu buông tha mình, hờn dỗi với giời mà gắt”, có những khi “tính toán mọi việc trong cái số bạc chắc chắn sẽ có ấy mà rồi vẫn bị ông giời giựt mất”. Đó là một thực tế chua chát, chán ngán mà không riêng gì ông Quải, bất cứ ai trong muôn kiếp nhân sinh này cũng phải trải qua, chịu đựng, đau khổ. Như vậy, đoạn trích đã khắc họa diễn biến nội tâm nhân vật vô cùng sinh động, chân thực, tạo cảm giác gần gũi, thân thuộc đối với mỗi chúng ta.

Ở đây, người kể chuyện đã có một khoảng cách vô cùng gần gũi, thân thiết với nhân vật, thể hiện cái nhìn cảm thông đối với số phận ông Quải, thậm chí bao biện cho cái tính vốn hay nóng giận của ông Quải. “Nói rồi lại cười, từ lúc ngồi trò chuyện với tôi ông cũng hay cười”, “Mình làm khổ mình đã đủ còn ai nỡ giận mình nữa”… Tuy nhiên, tác giả cũng giữ một khoảng cách nhất định với nhân vật. Đoạn trích thể hiện cái nhìn bao quát, đầy đủ và không thiên vị, không để cảm xúc chủ quan chi phối mà đánh giá về nhân vật ông Quải rất toàn vẹn. Bên cạnh những phẩm chất chịu khó, trách nhiệm của ông Quải thì ta còn thấy được sự thất bại của ông Quải trong rất nhiều lần kinh doanh: buôn long nhãn, gánh than ở Quảng Ninh, buôn lợn nhưng lần nào ông cũng thất bại ê chề. Cuộc sống của gia đình ông không đến nỗi thiếu thốn nhưng “nhìn quanh thì vẫn không bằng người”, “thua người, tính toán trí lực hơn người mà thua mưu cả đứa trẻ nên càng tức”. Đó là những giới hạn của ông Quải mà tác giả không dấu diếm, ngược lại, còn trần thuật một cách khách quan khiến ta nhìn rõ hơn chân dung nhân vật. Có thể nói, bằng cái nhìn như thế, nhân vật của Nguyễn Khải hiện lên đúng tinh thần “tả chân” của văn học sau 1975.

4) Giọng điệu trần thuật:

Viết về nhân vật ông Quải, Nguyễn Khải đã sử dụng một lối viết đa dạng điểm nhìn và giọng điệu trần thuật linh hoạt. Đầu tiên, tác giả bộc lộ giọng điệu cảm thông, chua xót lớn lao cho thân phận, nỗi đau của ông Quải khi phải đối diện với cuộc sống mưu sinh vất vả thời buổi kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, tác giả còn giữ một giọng điệu phê phán nghiêm khắc đối với những thói xấu của nhân vật như tính nóng giận, khả năng nắm bắt thời buổi kém tinh nhạy gây nên những thất bại liên tiếp. Tuy nhiên, tác giả cũng không quên thể hiện thái độ trân trọng, ngợi ca những vẻ đẹp nhân cách, phẩm chất đáng quý của nhân vật: tinh thần trách nhiệm với gia đình, sự chịu thương chịu khó, chăm chỉ hòa nhập với thời bình. Qua đó, tác giả ngầm gửi gắm niềm tin vào chiến thắng tất yếu của con người trước hiện thực cuộc sống khắc nghiệt. Chỉ cần con người luôn biết đấu tranh, phấn đấu không ngừng, họ sẽ đổi đời, đạt được hạnh phúc.

5) Ngôn ngữ trần thuật:

Góp phần vào xây dựng nghệ thuật tự sự đặc sắc của đoạn trích, không thể không kể đến hệ thống ngôn ngữ được sử dụng. Trong đoạn trích, tác giả đã vận dụng một phong cách ngôn ngữ trần thuật đa dạng. Ngôn ngữ kể chuyện vừa giản dị, mộc mạc, chân thành, gần với lời ăn tiếng nói của nhân dân, vừa hài hước, hóm hỉnh, bông đùa, có khi giễu cợt nhân vật (khi nói về tính nóng giận và trò chơi khăm của ông giời). Đồng thời, ngôn ngữ truyện cũng giàu tính triết lí, chiêm nghiệm, suy tư về cuộc đời và con người. Lớp ngôn ngữ trần thuật trên kết hợp với việc sử dụng các kĩ thuật, biện pháp nghệ thuật đặc sắc trong tổ chức ngôn ngữ đã góp phần tạo điểm nhấn cho câu chuyện. Chẳng hạn, đoạn trích sử dụng nhiều tính từ diễn tả cảm xúc nhân vật: “ngượng”, “khổ”, “giận”, “tức”…, cách nói so sánh sự gan dạ trong chiến tranh và gan dạ thời bình, giữa cái tính toán của mình và trò chơi khăm của ông trời,… Tác giả sử dụng nhiều con số cụ thể để tạo tính chân thật về những câu chuyện làm ăn thua lỗ. Trong quá trình kể chuyện, tác giả sử dụng nhiều câu dài và câu ngắn đan xen, kết hợp linh hoạt giữa lời kể và bình luận, đánh giá, thể hiện thái độ, cảm xúc, giữa lời của người kể chuyện và lời của nhân vật.

6) Đánh giá giá trị nội dung:

Như vậy, đoạn trích truyện “Giận ông giời” là một đoạn truyện ngắn giàu tính phê phán. Truyện hướng về chủ đề bi kịch mưu sinh kiếm sống của người lính sau chiến tranh. Đối tượng phản ánh trung tâm là ông Quải – hình tượng tiêu biểu cho những người lính đi ra cuộc chiến. Truyện đã phản ánh chân thực thời buổi kinh tế thị trường đầy khó khăn, con người lao vào những cuộc doanh thương lớn nhỏ, xu thế của xã hội nhưng không phải ai cũng thành công làm giàu, mang lại kinh tế ổn định cho gia đình. Bên cạnh đó, truyện còn khắc họa chân dung nhân vật ông Quải để khẳng định con người sẽ luôn phấn đấu, vươn lên nghịch cảnh bằng trách nhiệm và sự bền bỉ của chính mình để hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Tất cả điều này gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc nhờ một nghệ thuật tự sự có chiều sâu, giàu sức thuyết phục.

III. Kết bài: Tổng kết ý nghĩa của vấn đề, khẳng định tác phẩm và tài năng của tác giả

Soi vào thực tế văn học, tôi chợt hiểu vì sao có những nhà văn suốt cả cuộc đời không tạo nên được một tác phẩm có giá trị đích thực, để rồi phải ngậm đắng nuốt cay, than thở sự bạc bẽo của nghề văn. Và vì sao lại có những nghệ sĩ lớn như Nguyễn Khải. “Giận ông giời” chính là một minh chứng không thừa nhận định luật băng hoại của thời gian, đã để lại nhiều giá trị, trong đó có nghệ thuật tự sự đặc sắc.

Yêu thích

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *