Anh/chị hãy viết một bài văn nghị luận (600 chữ) phân tích, đánh giá về chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của văn bản sau:
Trong năm Quang Thái1 đời nhà Trần, người ở Hóa Châu2 tên là Từ Thức, vì có phụ ấm3 được bổ làm tri huyện Tiên Du4. Bên cạnh huyện có một tòa chùa danh tiếng, trong chùa trồng một cây mẫu đơn, đến kỳ hoa nở thì người các nơi đến xem đông rộn rịp, thành một đám hội xem hoa tưng bừng lắm. Tháng Hai năm Bính Tý5 (niên hiệu Quang Thái thứ chín (1396) đời nhà Trần), người ta thấy có cô con gái, tuổi độ mười sáu, phấn son điểm phớt, nhan sắc xinh đẹp tuyệt vời, đến hội ấy xem hoa. Cô gái vin một cành hoa, không may cành giòn mà gãy khấc, bị người coi hoa bắt giữ lại, ngày đã sắp tối vẫn không ai đến nhận. Từ Thức cũng có mặt ở đám hội, thấy vậy động lòng thương, nhân cởi tấm áo cừu gấm trắng, đưa vào tăng phòng để chuộc lỗi cho người con gái ấy. Mọi người đều khen quan huyện là một người hiền đức.
Song Từ Thức vốn tính hay rượu, thích đàn, ham thơ, mến cảnh, việc sổ sách bỏ ùn cả lại thường bị quan trên quở trách rằng:
– Thân phụ thầy làm đến đại thần mà thầy không làm nổi một chức tri huyện hay sao!
Từ than rằng:
– Ta không thể vì số lương năm đấu gạo đỏ mà buộc mình trong áng lợi danh. Âu là một mái chèo về, nước biếc non xanh vốn chẳng phụ gì ta đâu vậy.
Bèn cởi trả ấn tín6, bỏ quan mà về. Vốn yêu cảnh hang động ở huyện Tống Sơn7, nhân làm nhà tại đấy để ở. Thường dùng một thằng nhỏ đem một bầu rượu, một cây đàn đi theo, mình thì mang mấy quyển thơ của Đào Uyên Minh8, hễ gặp chỗ nào thích ý thì hí hửng ngả rượu ra uống. Phàm những nơi nước tú non kì như núi Chích Trợ, động Lục Vân, sông Lãi, cửa Nga9, không đâu không từng có những thơ đề vịnh.
[…..]
(Tóm lược một đoạn: Từ Thức vào một hang động, lạc tới cõi tiên, tên gọi Phù Lai. Chàng được bà tiên gả vợ cho. Đó chính là tiên nữ Giáng Hương, người con gái đánh gãy cành hoa ngày ấy. Ở cõi tiên chừng một năm, Từ Thức nhớ quê nên xin về thăm một chuyến)
Giáng Hương bùi ngùi không nỡ dứt. Từ lang nói:
– Tôi xin hẹn để về cho bạn bè gặp mặt và thu xếp việc nhà cho yên, rồi sẽ quay lại đây để với nàng cùng già ở chốn làng mây bến nước.
Giáng Hương khóc mà nói:
– Thiếp chẳng dám vì tình phu phụ mà ngăn cản mối lòng quê hương của chàng. Song cõi trần nhỏ hẹp, kiếp trần ngắn ngủi, dù nay chàng về nhưng chỉ e liễu sân hoa vườn, không còn đâu cảnh tượng như ngày trước nữa.
Nàng nhân thưa với phu nhân, phu nhân thở dài:
– Không ngờ chàng lại mắc mớ còn mối lòng trần như vậy.
Nhân cho một cỗ xe cẩm vân để chàng cưỡi về. Nàng cũng đưa cho chàng một bức thư viết vào lụa mà nói:
– Ngày khác trông thấy vật này, xin đừng quên mối tình ngày cũ.
Rồi tràn nước mắt mà ly biệt.
Chàng đi chỉ thoắt chốc đã về đến nhà, thì thấy vật đổi sao dời, thành quách nhân gian, hết thảy đều không như trước nữa, duy có những cảnh núi khe là vẫn không thay đổi sắc biếc màu xanh thủa nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm những người già cả thì thấy có người nói:
– Thuở bé tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi mất đến nay đã hơn 80 năm, nay đã là năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh là đời ông vua thứ ba của triều Lê rồi 10
Chàng bấy giờ mới hậm hực bùi ngùi; muốn lại lên xe mây để đi, nhưng xe đã hóa làm một con chim loan mà bay mất. Mở thư ra đọc, thấy có câu: “Kết lứa phượng ở trong mây, duyên xưa đã hết; tìm non tiên ở trên bể, dịp khác còn đâu!” mới biết là Giáng Hương đã nói trước với mình những lời ly biệt. Chàng bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoành Sơn, rồi sau không biết đi đâu mất.
(Trích Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ, NXB Hội Nhà văn, 2018, tr.112-113)
Chú thích:
Quang Thái1: Niên hiệu Trần Thuận Tông (1388 -1398)
Hóa Châu2: Thanh Hóa ngày nay
Phụ ấm3: được cấp chức quan khi có cha làm quan lớn
Tiên Du4: nay thuộc tỉnh Bắc Ninh
Năm Bính Tí5: dưới thời Thuận Tông là năm 1396
Ấn tín6: con dấu của vua quan thời trước
Tống Sơn7: Khoảng đời Trần là vùng đất tương đương với miền bắc huyện Nga Sơn và miền đông bắc huyện Hà Trung, thời Lê là vùng đất huyện Hà Trung, Thanh Hóa ngày nay
Đào Uyên Minh8: Năm sinh có ba thuyết 365, 372, 376, mất 427, tên là Tiềm, là thi gia đời Đông Tấn, từng làm huyện lệnh Bành Trạch. Sau vì không chịu luồn cúi nên treo ấn từ quan. Ông có câu nói nổi tiếng: “Lẽ nào vì năm đấu gạo lương mà phải khom lưng”. Thơ văn của ông giản phác mà tinh luyện, có phong cách riêng, phần lớn thể hiện tư tưởng ẩn dật
Chích Trợ, động Lục Vân, sông Lãi, cửa Nga9: đều là thắng cảnh của Thanh Hóa
Năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh10: Diên Ninh là niên hiệu của Lê Nhân Tông từ 1454 đến 1459, năm thứ 5 là 1458
Dàn ý phân tích, đánh giá về chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật
* Giới thiệu khái quát
Giới thiệu tác phẩm Truyền kì mạn lục và truyện Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên
* Đánh giá về chủ đề và đặc sắc về hình thức nghệ thuật
– Tóm tắt sơ lược về xuất thân của Từ Thức, niềm đam mê thi ca của ông và lí do ông từ quan.
+ Đánh giá về nhân vật: Thanh cao, liêm khiết, không màng danh lợi, tâm hồn bay bổng, phóng khoáng, yêu thi ca, không hứng thú với chốn quan trường, yêu thích cái đẹp, biết đối nhân xử thế, có lòng nhân từ giúp đỡ người khác, yêu quê hương đất nước….
– Đánh giá về chủ đề: Tác giả ca ngợi kẻ sĩ coi thường danh lợi, chán cảnh quyền chức, yêu thích ngao du sơn thủy
– Đánh giá về nghệ thuật:
+ Truyện kể theo trình tự thời gian.
+ Tình huống truyện chứa yếu tố kì ảo, hoang đường: Người trần kết hôn với tiên
+ Tác giả xây dựng không gian: vừa thực vừa ảo (cõi trần và cõi tiên) giúp câu chuyện thêm sinh động hấp dẫn.
+ Xây dựng thời gian cõi trần và cõi tiên song hành khác biệt…
* Đánh giá: Tác phẩm thể hiện thái độ của tác giả: Ca ngợi những kẻ sĩ, coi thường danh lợi, hào hoa, đề cao sự cứng cỏi, và taifn năng của kẻ sĩ.