Câu 1 (2,0 điểm). Phân tích nét nghệ thuật đặc sắc trong đoạn trích Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều)
(Trích)
“Trêu ngươi chi bấy trăng già?
Trao con chỉ thắm mà ra tơ mành!
Lòng ngán ngẩm buồn tênh mọi nỗi,
Khúc sầu tràng bối rối dường tơ.
Ngọn đèn phòng động đêm xưa,
Đài hoa tịnh đế (1) trơ trơ chưa tàn.
Mà lượng thánh (2) đa đoan kíp bấy,
Bỗng ra lòng ruồng rẫy vì đâu?
Bõ già tỏ nỗi xưa sau,
Chẳng đem nỗi ấy mà tâu ngự cùng?
Đêm phong vũ lạnh lùng có một,
Giọt ba tiêu thánh thót cầm canh.
Bên tường thấp thoáng bóng huỳnh,
Vách sương nghi ngút, đèn xanh lờ mờ.
Mắt chưa nhắp, đồng hồ đã cạn,
Cảnh tiêu điều ngao ngán dường bao.
Buồn này mới gọi buồn sao?
Một đêm nhớ cảnh biết bao nhiêu tình.
Bóng câu (3) thoáng bên mành mấy nỗi,
Những hương sầu phấn tủi bao xong!
Phòng khi động đến cửu trùng (4),
Giữ sao cho được má hồng như xưa.”
(Nguyễn Gia Thiều – thivien.net)
Chú thích:
(*) “Cung oán ngâm khúc là bài ca ai oán của người cung nữ có tài sắc, lúc đầu được nhà vua yêu chuộng, ái ân hết sức nồng nàn thắm thiết “mây mưa mấy giọt chung tình – đình trầm hương khoá một cành mẫu đơn”, nhưng chẳng bao lâu đã bị ruồng bỏ. Ở trong cung, nàng xót thương cho thân phận mình và oán trách nhà vua phụ bạc “chơi hoa cho rữa nhuỵ dần lại thôi”. Cung nữ khát khao muốn “đạp tiêu phòng mà ra” để trở về với cảnh đời “cục mịch nhà quê” thuở trước, nhưng nàng vẫn tiếp tục bị giam cầm trong cung điện vàng son, trong nỗi buồn đau sầu thảm và oán hờn chất chứa.” (Trích Wikipedia)
(1) đài hoa tịnh đế: Tịnh 並 là đôi, đế 蒂 là cái đế hoa, hai hoa cùng nở trên một đế, như sen một cọng nở hai hoa, hoa cúc, hoa lài một cọng nở hoa sinh đôi là điềm lành của sự vợ chồng đôi lứa. Hai ngọn đèn thắp cúng khi đầu lễ thành hôn, gọi là hoa chúc (đuốc hoa) ví như đôi hoa tịnh đế.
(2) thánh: chỉ vua.
(3) bóng câu: Là bóng con ngựa con, hoặc ngựa nhỏ mà mạnh, nghĩa bóng là bóng nắng.
(4) cửu trùng: (九重) là chín tầng, là nơi vua ở, chỉ vua.
Dàn ý Phân tích nét nghệ thuật đặc sắc trong đoạn trích Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều)
Mở bài:
- Giới thiệu về tác phẩm Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều – một tác phẩm tiêu biểu của thể ngâm truyền thống, phản ánh sâu sắc tâm trạng người cung nữ trong xã hội phong kiến.
- Đoạn trích là phần đặc sắc nhất thể hiện tâm tư, nỗi lòng và sự cô đơn, bi thương của người cung nữ bị lãng quên trong cung cấm.
- Khẳng định đoạn trích sở hữu những nét nghệ thuật tinh tế, độc đáo, góp phần thể hiện rõ nét nội dung cùng tâm trạng đau đáu của nhân vật trữ tình.
Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều là một tác phẩm ngâm thơ đặc sắc của nền văn học trung đại Việt Nam, phản ánh nỗi lòng u sầu, bi thương của người cung nữ trong cảnh ngột ngạt của cung đình phong kiến. Đoạn trích trong tác phẩm khắc họa sâu sắc tâm trạng cô đơn, thất vọng của nhân vật trữ tình thông qua ngôn ngữ biểu tượng giàu hình ảnh và biện pháp tu từ tinh tế, tạo nên sức sống nghệ thuật mãnh liệt cho bài ngâm.
Thân bài:
- Ngôn ngữ hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng
- Hình ảnh “trăng già”, “chỉ thắm ra tơ mành” mang ý nghĩa biểu tượng cho số phận nhan sắc đã phai tàn, cuộc đời người cung nữ héo úa, phôi pha.
- Hình ảnh “bóng câu” gợi sự chảy trôi nhanh của thời gian, tượng trưng cho cuộc đời ngắn ngủi, sự tiếc nuối về tuổi xuân đã qua không thể níu giữ.
- Biện pháp so sánh và ẩn dụ
- So sánh như “Khúc sầu tràng bối rối dường tơ” tạo dựng hình ảnh nỗi buồn dằng dặc, giăng mắc như sợi tơ mỏng manh không thể cắt đứt, làm nổi bật nỗi niềm day dứt, bức bối.
- Ẩn dụ “Ngọn đèn phòng động đêm xưa” và “Đài hoa tịnh đế trơ trơ chưa tàn” tượng trưng cho tình yêu và hy vọng đã phai nhạt, những điều đẹp đẽ giờ đây chỉ còn lại sự cô đơn, trơ trọi.
- Âm điệu nhẹ nhàng, buồn man mác
- Âm điệu chậm rãi, trầm lắng kết hợp nhịp thơ 3/4, 4/4 tạo nên sự ngao ngán, chán nản của người cung nữ trong hoàn cảnh bị bỏ rơi, lãng quên.
- Nhịp điệu đều đặn cùng việc sử dụng từ láy “lạnh lùng”, “trơ trơ” gợi cảm giác tĩnh mịch, cô đơn, làm rõ nét nỗi buồn và tâm trạng bức bối của nhân vật trữ tình.
- Từ ngữ gợi cảm, giàu tính hình tượng
- Những từ ngữ như “ngán ngẩm”, “lạnh lùng”, “tiêu điều”, “nghi ngút” được dùng để khắc họa không gian cung cấm lạnh lẽo, tịch mịch, góp phần làm nổi bật nỗi buồn man mác, nỗi cô đơn sâu sắc của người cung nữ.
Kết bài:
- Khẳng định nét nghệ thuật đặc sắc đã giúp làm rõ tâm trạng bi thương, tủi hờn của người cung nữ trong đoạn trích.
- Đồng thời, những nét nghệ thuật ấy góp phần nâng tầm giá trị thẩm mỹ và nội dung của toàn bộ tác phẩm Cung oán ngâm khúc, tạo nên dấu ấn sâu đậm trong văn học Việt Nam.
Những nét nghệ thuật tinh tế trong đoạn trích không chỉ thể hiện rõ tâm trạng tủi hờn, đau đáu của người cung nữ mà còn góp phần làm nổi bật giá trị thẩm mỹ của tác phẩm Cung oán ngâm khúc. Qua đó, Nguyễn Gia Thiều đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả, làm phong phú thêm kho tàng văn học truyền thống Việt Nam.
Bài văn mẫu Phân tích nét nghệ thuật đặc sắc trong đoạn trích Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều)
Bài văn mẫu 1
Nguyễn Gia Thiều là tác giả nổi tiếng của thể ngâm truyền thống Việt Nam, và tác phẩm Cung oán ngâm khúc được xem là một kiệt tác, phản ánh sâu sắc tâm trạng người cung nữ trong xã hội phong kiến. Đoạn trích trong tác phẩm thể hiện rất rõ tâm trạng cô đơn, buồn tủi cùng với những day dứt, oán hờn của nhân vật trữ tình. Điều đặc biệt làm nên sức hấp dẫn của đoạn thơ chính là những nét nghệ thuật tinh tế, tài hoa, giúp người đọc dễ dàng cảm nhận được chiều sâu tâm hồn người cung nữ.
Ngôn ngữ trong đoạn trích đậm chất biểu tượng và ẩn dụ. Hình ảnh “trăng già” và “chỉ thắm ra tơ mành” không đơn giản chỉ là mô tả cảnh vật mà còn như tiếng lòng than van, biểu trưng cho số phận phai tàn của người cung nữ, cho sắc đẹp và sức sống đã dần tàn úa theo năm tháng. “Bóng câu” là một hình ảnh gợi nhắc về sự trôi qua nhanh chóng của thời gian, cuộc đời ngắn ngủi và những tiếc nuối day dứt về những tháng năm thanh xuân đã không thể giữ lại. Qua những biểu tượng này, tác giả đã gửi gắm sự bất lực và nỗi buồn sâu thẳm trong tâm hồn nhân vật.
Biện pháp so sánh và ẩn dụ được Nguyễn Gia Thiều sử dụng rất hiệu quả để làm nổi bật tâm trạng của người cung nữ. “Khúc sầu tràng bối rối dường tơ” gợi lên hình ảnh nỗi buồn chồng chất, dằng dặc như những sợi tơ mỏng manh nhưng không thể cắt đứt. Nỗi niềm ấy được dệt nên từ sự cô đơn, tuyệt vọng, khiến người ta cảm thấy ám ảnh. Hình ảnh “Ngọn đèn phòng động đêm xưa” và “Đài hoa tịnh đế trơ trơ chưa tàn” lại tượng trưng cho tình yêu, hi vọng đã phai nhạt, giờ đây chỉ còn lại sự lạnh lẽo, trơ trọi. Đây là cách dùng ẩn dụ đầy cảm xúc, làm tăng sức nặng cho tâm trạng nhân vật.
Âm điệu của đoạn thơ rất nhẹ nhàng, buồn man mác. Nhịp thơ chậm rãi, hòa quyện giữa nhịp 3/4 và 4/4 tạo nên cảm giác ngao ngán, chán chường của người cung nữ trong sự cô độc, lặng lẽ. Sự lặp lại các từ láy như “lạnh lùng”, “trơ trơ” làm tăng thêm cảm giác tĩnh mịch, cô đơn và tủi hờn. Tất cả những điều đó tạo nên một không gian âm thanh vừa buồn vừa dịu dàng, khiến người đọc như hòa vào tâm trạng bức bối của nhân vật.
Từ ngữ trong đoạn trích cũng được chọn lọc rất kỹ càng và giàu sức gợi. Các từ như “ngán ngẩm”, “lạnh lùng”, “tiêu điều”, “nghi ngút” không chỉ đơn thuần miêu tả không gian cung đình mà còn phản ánh sâu sắc tâm trạng cô đơn, thất vọng của người cung nữ. Không gian lạnh lẽo, tĩnh lặng như làm gia tăng nỗi đau của nhân vật, khiến cho tâm hồn người đọc cũng chùng xuống theo từng câu chữ.
Nét nghệ thuật đặc sắc trong đoạn trích không chỉ giúp thể hiện rõ nét tâm trạng buồn tủi, oán hờn của người cung nữ mà còn nâng cao giá trị nghệ thuật của toàn bộ tác phẩm Cung oán ngâm khúc. Qua ngôn ngữ hình tượng sinh động, biện pháp tu từ tinh tế và âm điệu trữ tình sâu lắng, Nguyễn Gia Thiều đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc qua bao thế hệ, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học truyền thống của nước ta.
Bài văn mẫu 2
“Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều là một tác phẩm ngâm thơ tiêu biểu trong văn học trung đại Việt Nam, nói lên nỗi lòng xót xa, cô đơn của người cung nữ trong cảnh ngột ngạt của cung đình phong kiến. Đoạn trích được xem là phần đặc sắc nhất của tác phẩm, vừa thể hiện sâu sắc tâm trạng bi thương của nhân vật trữ tình, vừa thể hiện rõ nét tài năng nghệ thuật qua ngôn ngữ ẩn dụ, biểu tượng và nhịp điệu trữ tình đặc biệt.
Ngôn ngữ của đoạn thơ giàu hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng mang ý nghĩa sâu xa. Hình ảnh “trăng già” và “chỉ thắm ra tơ mành” không chỉ là cảnh vật mà như lời ẩn dụ cho sự phai tàn, lụi tàn của tuổi xuân và số phận người cung nữ. Đó là dấu hiệu của sắc đẹp phôi pha, của thời gian không ngừng trôi khiến cuộc đời trở nên tàn úa. Hình ảnh “bóng câu” cũng là biểu tượng đầy sức gợi, tượng trưng cho sự chảy trôi nhanh chóng của thời gian và sự tiếc nuối những năm tháng đẹp nhất đã vụt qua không thể níu giữ.
Biện pháp so sánh và ẩn dụ cũng được sử dụng một cách linh hoạt, giúp nhân vật trữ tình hiện lên sống động và đầy cảm xúc. So sánh “Khúc sầu tràng bối rối dường tơ” làm nổi bật nỗi buồn kéo dài dai dẳng, giăng mắc như sợi tơ mỏng manh không thể cắt đứt, khiến người ta cảm nhận được sự ngột ngạt, bức bối trong lòng người cung nữ. Hình ảnh “Ngọn đèn phòng động đêm xưa” và “Đài hoa tịnh đế trơ trơ chưa tàn” như minh chứng cho tình yêu và hy vọng đã lụi tàn, chỉ còn lại sự trơ trọi, cô đơn, biểu tượng cho sự mất mát không thể bù đắp.
Âm điệu đoạn thơ mang lại cảm giác nhẹ nhàng nhưng đầy u sầu, man mác. Nhịp thơ được phối hợp giữa 3/4 và 4/4 vừa khiến câu thơ ngân nga vừa tạo nên sự trầm lắng, ngao ngán. Việc lặp lại các từ láy như “lạnh lùng”, “trơ trơ” càng làm tăng thêm không khí tĩnh mịch, cô đơn và tâm trạng thất vọng của người cung nữ. Từng câu chữ như vẽ nên bức tranh âm thanh buồn bã, khiến người đọc không khỏi xúc động.
Từ ngữ chọn lọc rất tinh tế và giàu sức gợi, dùng để miêu tả không gian cung cấm tĩnh lặng, lạnh lẽo và phản ánh tâm trạng bi thương, cô độc của nhân vật. Các từ “ngán ngẩm”, “lạnh lùng”, “tiêu điều”, “nghi ngút” góp phần làm nổi bật sự lạnh nhạt, tịch mịch và sự bức bối tâm hồn, tạo nên một bức tranh ảm đạm đầy ám ảnh.
Tổng hòa những nét nghệ thuật trên làm rõ tâm trạng buồn tủi, oán hờn của người cung nữ trong đoạn trích. Không chỉ vậy, nó còn nâng cao giá trị thẩm mỹ và nội dung của toàn bộ tác phẩm Cung oán ngâm khúc, khiến tác phẩm trở thành một biểu tượng đặc sắc của nền văn học trung đại Việt Nam, sống mãi trong lòng người đọc.
Bài văn mẫu 3
Tác phẩm Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều là một kiệt tác thể hiện sâu sắc tâm trạng u buồn của người cung nữ trong xã hội phong kiến đầy ràng buộc. Đoạn trích trong tác phẩm được đánh giá là đặc sắc nhất, dùng nghệ thuật ngôn từ tinh tế, giàu hình ảnh biểu tượng và biện pháp tu từ tài hoa để khắc họa rõ nét sự cô đơn, thất vọng và tủi hờn của nhân vật trữ tình.
Ngôn ngữ hình ảnh ẩn dụ trong đoạn thơ không chỉ gợi tả cảnh vật mà còn làm bật ý nghĩa sâu xa về số phận con người. Hình ảnh “trăng già” gợi lên sắc đẹp phai tàn, sự hao mòn của tuổi trẻ. “Chỉ thắm ra tơ mành” như những sợi tơ mỏng manh, dễ vỡ, tượng trưng cho đời người mỏng giòn, chóng tàn. “Bóng câu” ám chỉ sự trôi qua vội vàng của thời gian, làm nổi bật nỗi tiếc nuối về những năm tháng thanh xuân đã mất.
Biện pháp so sánh và ẩn dụ được sử dụng rất linh hoạt và sinh động. So sánh “Khúc sầu tràng bối rối dường tơ” làm nổi bật nỗi buồn dằng dặc, dai dẳng, không thể tháo gỡ, tạo nên sự căng thẳng nội tâm sâu sắc. Hình ảnh “Ngọn đèn phòng động đêm xưa” và “Đài hoa tịnh đế trơ trơ chưa tàn” vừa tượng trưng cho tình yêu và niềm hi vọng đã qua, vừa gợi lên sự cô đơn, lạnh lẽo hiện tại.
Âm điệu đoạn trích nhẹ nhàng, man mác nỗi buồn. Nhịp thơ pha trộn giữa 3/4 và 4/4 vừa tạo nên sự nhịp nhàng, lại vừa mang đến sự trầm lắng, thể hiện tâm trạng u sầu, chán nản của người cung nữ. Việc lặp đi lặp lại các từ láy “lạnh lùng”, “trơ trơ” giúp khắc họa không gian tĩnh mịch, cô đơn, nâng cao sức biểu cảm cho bài thơ.
Từ ngữ trong đoạn thơ mang tính hình tượng cao, giàu sức gợi. Các từ như “ngán ngẩm”, “lạnh lùng”, “tiêu điều”, “nghi ngút” được dùng để thể hiện không khí u ám, lạnh lẽo của cung đình, cũng là nỗi buồn, sự cô đơn sâu sắc của nhân vật trữ tình.
Nét nghệ thuật đặc sắc ấy góp phần làm bật lên tâm trạng bi thương, tủi hờn của người cung nữ, đồng thời làm tăng giá trị thẩm mỹ của tác phẩm Cung oán ngâm khúc. Chính nhờ đó mà đoạn trích vẫn giữ được sức sống lâu bền và giá trị nghệ thuật sâu sắc trong lòng độc giả nhiều thế hệ.