Đề bài: Bàn về vai trò của tình huống trong tác phẩm, nhà văn Nguyễn Minh Châu nhận định: “Tình huống chính là thứ nước rửa ảnh làm nổi hình nổi sắc nhân vật, làm rõ tư tưởng nhà văn, là khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người”.
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Làm sáng tỏ qua việc phân tích truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân
Dàn ý chi tiết
I. MỞ BÀI
Giới thiệu vai trò quan trọng của tình huống truyện trong truyện ngắn.
Dẫn nhận định của Nguyễn Minh Châu: “Tình huống chính là thứ nước rửa ảnh làm nổi hình nổi sắc nhân vật, làm rõ tư tưởng nhà văn, là khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người”.
Khẳng định nhận định sâu sắc, chính xác; có thể được làm sáng tỏ qua truyện ngắn Làng của Kim Lân.
II. THÂN BÀI
1. Giải thích nhận định
Tình huống truyện: hoàn cảnh đặc biệt, bước ngoặt buộc nhân vật phải đối diện, hành động hoặc bộc lộ nội tâm.
“Nước rửa ảnh”: hình ảnh ẩn dụ → tình huống làm nổi bật tính cách, phẩm chất nhân vật rõ nhất.
“Làm rõ tư tưởng nhà văn”: từ tình huống, tư tưởng tác phẩm, thông điệp nhân sinh hiện lên tập trung và sắc nét.
“Khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người”: chỉ một lát cắt nhưng có khả năng khái quát số phận, tâm trạng, tính cách sâu xa.
→ Nhận định đề cao vai trò quyết định của tình huống đối với việc thể hiện nội dung và nghệ thuật truyện ngắn.
2. Vai trò của tình huống trong truyện ngắn Làng
a. Tình huống cơ bản của truyện
Ông Hai – một người nông dân tản cư – nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.
Đây là tình huống bất ngờ, trớ trêu, tạo mâu thuẫn sâu sắc:
✨ KHO TÀI LIỆU NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CHO GEN Z HỌC ĐỈNH ✨
tình yêu làng tha thiết ↔ lòng yêu nước, trung thành với kháng chiến.
→ Tình huống là điểm xuất phát của toàn bộ diễn biến tâm lí nhân vật.
b. Tình huống như “nước rửa ảnh”: làm nổi bật nhân vật ông Hai
Nỗi đau và sự bàng hoàng
Khi nghe tin làng theo giặc: “ông lão lặng đi”, “cổ nghẹn lại”, “mặt tắc nghẽn”.
→ Cho thấy tình yêu làng sâu nặng.
Sự xấu hổ, tủi nhục
“Cúi gằm mặt mà đi”, nằm vật ra, khóc khi nhìn các con.
→ Tình huống đẩy nhân vật vào đau đớn để bộc lộ nội tâm chân thật.
Giằng xé lựa chọn
Không muốn về làng, thấm thía nỗi nhục vì làng phản bội.
Đặt câu hỏi: “Về làng tức là bỏ kháng chiến…”.
→ Cho thấy ông Hai đặt Tổ quốc lên trên làng quê, minh chứng tình yêu nước sâu sắc.
Lòng trung thành với cách mạng
Tâm sự với con: “Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”.
→ Tình huống bộc lộ phẩm chất trung kiên của người nông dân thời kháng chiến.
Niềm vui vỡ òa khi nghe cải chính
“Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ!”, giọng nói reo vui.
→ Mất nhà nhưng vui vì làng không theo giặc → tình cảm trong sáng, chân thành.
→ Không có tình huống này, thế giới nội tâm ông Hai không thể hiện lên đầy đủ và sâu sắc đến vậy.
c. Tình huống làm rõ tư tưởng Kim Lân
Khẳng định: người nông dân Việt Nam có tình yêu làng nhưng khi đứng trước vận nước, họ biết đặt Tổ quốc lên trên.
Tình yêu nước – kháng chiến – niềm tin vào cụ Hồ là giá trị thiêng liêng.
Ca ngợi phẩm chất chân thật, mộc mạc mà cao đẹp của người nông dân.
→ Tình huống là “chiếc cầu” giúp tư tưởng nhà văn hiện lên rõ nhất.
d. Tình huống chứa đựng “cả một đời người”
Chỉ một diễn biến nghe tin rồi được cải chính, nhưng:
bộc lộ cả đời yêu làng;
cho thấy sự chuyển biến nhận thức của người nông dân trong buổi đầu độc lập;
khái quát đời sống tinh thần cả một lớp người.
→ Tình huống nhỏ nhưng ý nghĩa lớn, mang tính khái quát cao.
3. Đánh giá
Kim Lân đã xây dựng một tình huống truyện hết sức độc đáo, chân thật, chứa kịch tính nhưng giàu chất đời.
Qua đó, ông thành công khắc họa tâm lí nhân vật và truyền tải tư tưởng nhân văn.
Nhận định của Nguyễn Minh Châu hoàn toàn đúng khi soi vào truyện ngắn Làng.
III. KẾT BÀI
Khẳng định lại tính đúng đắn của lời nhận xét: tình huống truyện là yếu tố trung tâm, làm nên sức sống và chiều sâu của truyện ngắn.
Tác phẩm Làng là minh chứng nổi bật: nhờ tình huống độc đáo mà nhân vật ông Hai trở thành một hình tượng đẹp, giàu giá trị nhân văn.
Mở rộng: tình huống truyện không chỉ là kĩ thuật viết mà còn là phát hiện tinh tế của nhà văn trước những khoảnh khắc “đắt giá” của đời sống.
Bài văn mẫu tham khảo
Người Nhật vô cùng xem trọng những khoảnh khắc. Trong mỹ cảm của họ, những khoảnh khắc dường như đều ẩn chứa ý niệm cao thâm của cuộc đời: một thi sĩ trên đường du hành thấy con ếch nhảy vào ao cũ, chợt ngộ ra sự hữu hạn của đời người; nghe tiếng vượn kêu sầu não trong khu rừng vắng, nhà thơ cũng có thể động lòng nhớ đến thân phận những đứa trẻ bị bỏ rơi;…. Những khoảnh khắc nhỏ bé đôi khi chính là những cú hích đầy tinh tế giúp ta chiêm nghiệm ra nhiều điều quý giá trong cuộc sống. Trong văn học cũng có những khoảnh khắc kì diệu như vậy, đó chính là tình huống truyện. Tình huống truyện là sự kiện đặc biệt quan trọng, là khoảnh khắc giúp tư tưởng của nhà văn dần được hé mở, giúp nhân vật được khắc hoạ rõ nét nhất, sâu sắc nhất. Bàn về vai trò của tình huống trong tác phẩm, nhà văn Nguyễn Minh Châu nhận định: “Tình huống chính là thứ nước rửa ảnh làm nổi hình nổi sắc nhân vật, làm rõ tư tưởng nhà văn, là khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người”. Tình huống truyện trong tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân là một minh chứng rõ nét.
Tình huống là hoàn cảnh riêng, tình thế xảy ra truyện, là khoảnh khắc được tạo nên bởi một sự kiện trong truyện mà tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. “Nước rửa ảnh” là chất hóa học dùng để làm nổi bật đường nét, hình khối trên ảnh chụp. Khi Nguyễn Minh Châu ví tình huống truyện là “thứ nước rửa ảnh làm nổi hình nổi sắc nhân vật”, ông đã nhấn mạnh mỗi tình huống là những khoảnh khắc tiêu biểu được xây dựng có dụng ý để làm nổi bật đặc điểm tính cách, hành động, suy nghĩ của nhân vật khi họ giải quyết tình huống mâu thuẫn; từ đó cũng thể hiện những chiêm nghiệm, quan điểm của nhà văn trước hiện thực cuộc sống. Bên cạnh đó, tình huống truyện còn là “khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người” – cho thấy dù là một lát cắt nhỏ, một tình huống cụ thể nhưng qua đó, ta cảm nhận được cả quá trình biến đổi tâm lý, những trải nghiệm của nhân vật. Trong dung lượng hữu hạn, tình huống truyện từ đó có khả năng khái quát những gì bản chất nhất về con người, đời sống. Như vậy, quan niệm của Nguyễn Minh Châu đã khẳng định vai trò quan trọng của tình huống đối với một tác phẩm trong việc làm nổi bật nhân vật cùng những tư tưởng, chân lí mà nhà văn gửi gắm.
Đối với tác phẩm văn học, đặc biệt là truyện ngắn, tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân trong cấu trúc thể loại. Bởi lẽ truyện ngắn là một thể loại đặc biệt mà ở đó, sự ngắn gọn, hàm súc về mặt dung lượng trở thành tôn chỉ, là đặc trưng không thể phủ nhận. Nó là một lát cắt của đời sống nhưng lại có khả năng thâu tóm, dung chứa nhiều bài học nhân sinh sâu sắc. Nhưng câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào để truyện ngắn có sức chứa lớn trong sự hạn định về mặt dung lượng như vậy? Câu trả lời chính là ở tình huống truyện. Như Bùi Việt Thắng đã nhận định, “điều quan trọng của truyện ngắn là phải lựa chọn được tình thế”, điều làm nên đặc sắc của truyện ngắn là việc nhà văn kiến tạo được một tình huống truyện đặc sắc. Một cây bút viết truyện lành nghề phải là một nhà văn biết lựa chọn ở cuộc sống nhân sinh một khoảnh khắc đặc biệt, “bắt buộc con người ở vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí chứa đựng cả một đời người, một đời nhân loại” (Nguyễn Minh châu). Tình huống truyện trong truyện ngắn, do đó, thường chứa đựng những mâu thuẫn, nghịch lí, những điều “bất bình thường”, xáo trộn cuộc đời đang bằng phẳng và lặng lẽ của nhân vật, buộc nhân vật phải suy nghĩ, phải lựa chọn, phải hành động. Tình huống chính là một bước ngoặt lớn trong hệ thống cốt truyện, ở đó, để giải quyết tình huống, nhân vật sẽ dần bộc lộ chính mình, giúp người đọc hiểu hơn về tính cách, tâm hồn của nhân vật ấy. Đồng thời, tình huống truyện cũng là một trong những yếu tố cốt lõi thể hiện tư tưởng, tình cảm của nhà văn, là chiếc cầu đưa người đọc khám phá những diễn ngôn của người viết, cùng những thông điệp nhân sinh nhà văn muốn nhắn gửi. Tình huống truyện, do đó, là một đặc trưng quan trọng, không thể thiếu của truyện ngắn. Không có tình huống truyện đắt giá, không thể có truyện ngắn thành công.
Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Ông là người “quý hồ tinh bất quý hồ đa” với tổng số tác phẩm trong suốt sự nghiệp không quá nhiều; nhưng chừng đó cũng đủ để cây bút này gây ấn tượng mạnh mẽ trên văn đàn. Truyện ngắn Kim Lân chân chất, giản dị, gần gũi với nông thôn và người nông dân. Truyện ngắn Làng của ông là một trong số những tác phẩm tiêu biểu, gây ấn tượng với bạn đọc nhờ tình huống truyện đặc sắc.
Tình huống truyện trong tác phẩm Làng của Kim Lân đầy kịch tính, hấp dẫn và giàu ý nghĩa xoay quanh nhân vật ông Hai. Ông Hai vốn là người làng chợ Dầu, song vì hoàn cảnh chung, ông phải đi tản cư, rời xa nơi chôn nhau cắt rốn mà ông vẫn luôn rất mực tự hào. Ở nơi xa, ông ngày đêm mong nhớ về làng, kể về ngôi làng ấy với tất cả niềm tin tưởng và tình yêu vô bờ bến. Song câu chuyện chỉ thực sự bắt đầu khi Kim Lân đặt nhân vật vào một hoàn cảnh trớ trêu: ông Hai tình cờ nghe tin làng chợ Dầu trở thành Việt gian theo Pháp, phản lại kháng chiến, phản lại cụ Hồ. Từ đây, thế giới nội tâm chất chứa những mâu thuẫn, những cuộc đối thoại giằng xé giữa tình cảm cá nhân và trách nhiệm, giữa tình yêu quê hương và lòng yêu nước, những giọt nước mắt đau đớn, cùng tất cả những đặc điểm về ông Hai mới dần được tỏ tường.
Tình huống truyện tâm lí đặc sắc quả thực đã trở thành thứ “nước rửa ảnh” làm “nổi hình nổi sắc” những phẩm chất, tính cách của nhân vật ông Hai. Cứ xem cách Kim Lân dụng bút miêu tả diễn biến tâm trạng của ông sau cú “sét đánh ngang tai” ấy cũng đủ thấy. Ông Hai yêu làng vô cùng! Chính vì thế mà khi vừa nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, “ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ”. Đó là một cảm giác bị bóp nghẹt bất ngờ và đáng sợ, một cú sốc lớn nã thẳng vào niềm tự hào đang rực cháy của ông Hai. Ông vô cùng sững sờ, ngạc nhiên, bàng hoàng đến nghẹt thở trước cái tin dữ vừa ập đến. Chỉ mới nãy, ta vẫn thấy một ông Hai hồ hởi hỏi thăm tình hình quê nhà, nhưng ngay sau khi nghe tin làng theo giặc, giọng ông đã “lạc hẳn đi”. Nhà văn Kim Lân còn khéo léo xây dựng nút thắt bằng cách để một người tản cư từ chính vùng quê của ông Hai nói ra thông tin ấy: “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…” để tăng sự kịch tính cho tình huống. Khi giây phút thảng thốt qua đi, ông Hai rơi vào nỗi bẽ bàng, xấu hổ. Một người từng khoe làng, nhớ làng như thế, lúc này chỉ biết “cúi gằm mặt xuống mà đi” – muốn trốn tránh, bỏ chạy cho khỏi nhục nhã, để khỏi bị phát hiện là người làng Việt gian. Về đến nhà, ông nằm vật ra, “nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra…”, ông tự hỏi: “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu…”. Nỗi xót xa, nghẹn ngào cho các con cũng chính là nỗi đau đớn cho chính mình. Tình huống truyện quả thực đã làm nổi bật tình yêu làng tha thiết của nhân vật: có yêu thì mới thấy đau đớn khi nghe làng theo Tây; có yêu mới trăn trở, suy ngẫm, mới vật vã, xấu hổ khi nhận được cái tin dữ ấy. Khi con người ta đem buộc mình với một mảnh đất, gắn mình với một địa danh, khi yêu tha thiết một điều gì đó mà nhận ra mình bị phản bội thì nỗi đau đớn là lẽ thường tình. Tình yêu thương gắn bó càng nhiều thì nỗi đau càng lớn. Ông Hai càng đau đớn bao nhiêu, càng chứng ông yêu làng bây nhiêu.
Tuy nhiên, tình huống truyện trong Làng của Kim Lân không khép lại ở tình yêu làng, mà mở ra một chân trời rộng hơn, đó là tình yêu nước. Ông Hai là một lão nông dân giàu tình yêu nước. Mấy ngày sau khi nghe tin làng theo Tây, ông buồn chán và lo sợ chẳng dám đi đâu, càng bế tắc hơn khi mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi không cho ở nhờ vì là người của làng Việt gian. Khi ấy, nỗi đau đã trở thành sự tuyệt vọng. Tác giả đã đặt nhân vật vào một tình thế giằng xé căng thẳng, bắt buộc phải đưa ra quyết định, phải giải quyết triệt để, tức là phải lựa chọn giữa tình yêu làng và tình yêu nước. Và ông Hai đã lựa chọn trung thành với tổ quốc. Ông yêu làng, nhưng lúc này, ông hiểu “về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ cụ Hồ…”. Trước cái tin dữ, lòng ông bỗng hóa căm hờn, mỗi suy nghĩ trong ông vô cùng sắc lạnh, tỉnh táo, quyết không trở về: “Ông không thể về cái làng ấy được nữa […] Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Nếu trước đây, ông Hai luôn muốn ở lại cùng anh em trong làng đào đường, đắp ụ, không muốn đi tản cư thì giờ đây, thật trớ trêu, ông lại không muốn trở về. Ông đã tạm gạt bỏ đi những nỗi niềm riêng để thể hiện sự hòa nhịp vào tinh thần kháng chiến sôi sục của đất nước. Khi bắt buộc phải lựa chọn, ông chọn yêu nước, ông sẵn sàng căm thù làng nếu làng đi ngược lại với tinh thần dân tộc. Đó quả thực là một sự lựa chọn khó khăn và đầy thách thức với một người nông dân quanh năm gắn bó với làng xóm. Khi trò chuyện tâm tình với đứa con thơ, tình yêu nước nồng nàn ấy một lần nữa được khẳng định “Anh em đồng chí biết cho bố con lão. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con lão. Cái lòng bố con nhà lão là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai. Mỗi lần nói ra được vài câu như vậy, nỗi khổ trong lòng lão cũng vời vợi đi được đôi phần.” Như vậy, tình huống truyện đặc sắc đã làm nổi bật ở nhân vật người nông dân tình yêu nước thiết tha, thiêng liêng và sâu nặng.
Tình huống truyện làm nổi bật diễn biến tâm lí nhân vật từ yêu làng đến thù làng vì làng theo Tây đã làm sáng tỏ tinh thần kháng chiến mãnh liệt, sự trung thành với cách mạng của ông Hai. Song ở nhân vật này, tình yêu nước không triệt bỏ tình yêu làng mà có sự hòa quyện giữa hai thứ tình cảm sâu nặng đó. Khi nghe tin làng theo giặc, ông đau khổ giằng xé. Khi nghe tin làng được cải chính, ông mừng rỡ, hạnh phúc: “Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính… Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết. Toàn là sai sự mục đích cả!”. Đối với người nông dân, căn nhà chính là cơ ngơi cả đời. Thế nhưng ông Hai lại vui mừng khôn xiết khi nghe tin Tây đốt nhà mình, bởi lẽ đó là minh chứng rõ ràng nhất cho tấm lòng thủy chung, son sắt của quê hương ông với cách mạng. Nhà có thể mất, nhưng lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến thì ngày một mạnh mẽ, bền bỉ. Như vậy để ta thấy được rằng ở nhân vật ông Hai, tình yêu làng không tách biệt siêu hình mà đã hòa cùng dòng với tình yêu nước, thậm chí là nền tảng để tình yêu nước càng trở nên gắn bó, bền chắc hơn.
Nhờ xây dựng tình huống truyện kịch tính, đặc sắc, Kim Lân đã giúp người đọc chiêm nghiệm được những giá trị nhân văn tích cực, giàu ý nghĩa, mang đậm hơi thở thời đại. Qua diễn biến tâm lí của nhân vật ông Hai, tác giả đã khẳng định, đề cao, thể hiện sự trân trọng, tự hào trước tình yêu làng và tình yêu nước hòa quyện gắn bó trong mỗi người nông dân Việt Nam. Bên cạnh đó, “Làng” là sự khẳng định giai đoạn tìm đường và nhận đường của nền văn hoá mới. Đó là tinh thần sục sôi chống Pháp, tích cực tham gia kháng chiến, phục vụ cho kháng chiến, với niềm tin bát ngát vào tương lai tươi sáng của đất nước. Tình huống truyện, như vậy, chẳng những làm “nổi hình nổi sắc” nhân vật mà còn có khả năng chưng cất tư tưởng, tình cảm của người viết, thể hiện thông điệp nhân văn tích cực của tác giả. Nhờ có tình huống truyện, độc giả có khả năng đi sâu vào đời sống nội tâm của nhân vật, khám phá thế giới riêng trong tâm hồn nhà văn. Song, cộng hưởng với tình huống truyện, Kim Lân cũng đã thành công với nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, đặc sắc thông qua miêu tả tâm lí, hành động, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm; nghệ thuật kể chuyện và những chi tiết nghệ thuật đắt giá,.. Nói vậy để thấy rằng trong thế giới của truyện ngắn, tình huống truyện và các đặc trưng khác như chi tiết nghệ thuật, thế giới nhân vật, cốt truyện,… không tách rời mà quan hệ biện chứng, cộng hưởng và tôn vinh lẫn nhau, tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Nhận định của Nguyễn Minh Châu đã để lại bài học sâu sắc cho người sáng tác và tiếp nhận. Với người sáng tác, để kiến tạo được một tình huống nghệ thuật đặc sắc, người viết cần có tài năng quan sát tinh tế, vốn sống phong phú, dồi dào cùng sự nhạy cảm để nắm bắt được những khoảnh khắc quý giá của đời sống. Bên cạnh đó, anh cần có trái tim nhiệt huyết, tinh thần nhân văn để tạo nên tầng tư tưởng sâu xa ẩn tàng sau tình huống truyện. Không chỉ nhà văn mà ngay cả người đọc trong quá trình tiếp nhận cũng cần được trang bị đầy đủ kiến thức và sự tinh tế để trước nhất là phát hiện được tình huống truyện, sau là thấu tỏ được giá trị, ý nghĩa hàm ẩn của nó. Có như vậy, tác phẩm mới thực sự được tiếp cận một cách đủ đầy, trọn vẹn,
Khi nghĩ về tình huống truyện, có vẻ hơi kì lạ, nhưng tôi thường liên tưởng đến cái chốt bom. Một khi rút chốt, năng lượng bên trong sẽ tung vỡ xối xả và phát huy tất thảy tiềm lực của mình. Tất nhiên, mọi sự so sánh đều có giới hạn, nhưng ở một góc độ nào đó, tình huống truyện cũng có vai trò như vậy. Nó sẽ giải phóng nhân vật khỏi mọi lớp áo hư ngụy, là cú hích quan trọng có khả năng khai phóng cốt truyện, khơi thông mạch nguồn tư tưởng ẩn chìm của nhà văn. Do đó, trong truyện ngắn, không thể không có tình huống truyện. Nó là yếu tố khẳng định sự tồn tại của tác phẩm và khẳng định uy danh của người viết, là thành tố sống còn, không thể thay thế.
Post Views: 289
✨ KHO TÀI LIỆU NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CHO GEN Z HỌC ĐỈNH ✨
Chỉ cần chọn 1 lá bài – Vũ trụ sẽ trả lời: Yes, No hay Maybe!
Hàng nghìn người đã trải nghiệm và tìm thấy lời khuyên bất ngờ 💫
🔮 Trải bài ngay