📘 Tải 100+ tài liệu nghị luận văn học, 100+ đề thi học sinh giỏi ... chỉ 1 Click

Phân tích ý kiến của Lê Ngọc Trà và làm sáng tỏ qua bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

ĐỀ : “Nghệ thuật thực sự đòi hỏi cả tài năng và tâm hồn, cả sự thông minh và lòng trắc ẩn, cả cảm xúc và sự chiêm nghiệm vượt lên trên thời gian – lịch sử.”

(Nhà văn và quá trình sáng tạo, Lê Ngọc Trà, NXB Trẻ, tr.237, TPHCM, 2018)

Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý, tựa chiêm bao

GỢI Ý LÀM BÀI

Mở bài

Giới thiệu vấn đề nghị luận rõ ràng, chính xác, hấp dẫn

– Giới thiệu bài thơ

Thân bài

Giải thích

Nghệ thuật thực sự: những tác phẩm chân chính giàu tính thẩm mĩ, thực hiện xuất sắc sứ mệnh cao cả của nghệ thuật và  có sức sống lâu bền với thời gian.

– … đòi hỏi cả tài năng và tâm hồn, cả sự thông minh và lòng trắc ẩn, cả cảm xúc và sự chiêm nghiệm vượt lên trên thời gian – lịch sử: Tác phẩm nghệ thuật thực sự luôn kết tinh sự từng trải, vốn sống, tư tưởng, tình cảm, những suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc, có ý nghĩa muôn đời của người cầm bút. Nói cách khác, tác phẩm nghệ thuật chứa đựng trong đó cái tâm và cái tài, trí tuệ và tình cảm của nghệ sĩ. Cái gốc tình cảm ở nghệ sĩ là lòng trắc ẩn – niềm cảm thương sâu kín tới mọi nông nỗi kiếp người; giá trị quan trọng trong tư tưởng của nghệ sĩ là ở những chiêm nghiệm sâu sắc vượt thời đại về cuộc sống và nhân sinh.

=> Nhận định đề cập đến vấn đề đặc trưng của văn học và vai trò của nhà văn trong sáng tạo nghệ thuật.

Bàn luận

Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, của sự sáng tạo. Bởi vậy nó đòi hỏi ở người nghệ sĩ những tố chất đặc biệt: sự mẫn cảm, óc quan sát tinh tế, trí tưởng tượng dồi dào, trí tuệ sắc sảo, vốn sống phong phú và cá tính riêng biệt,… Không thể cố mà có thể trở thành nhà văn nhà thơ, bởi ngoài sự dày công khổ luyện, trau dồi tài năng, nghệ sĩ còn cần những tố chất thiên bẩm. Để viết nên những tác phẩm văn chương thực sự có giá trị, nhà văn phải là kẻ nhạy cảm với sự sáng tạo từ trong bản năng, biết rung động với cái đẹp trong tự nhiên và trong cuộc sống, có thể nhìn ra cái vô hình vô ảnh, nhìn xuyên thấu mọi ngóc ngách của miền nhân sinh, rọi tới cái thăm thẳm trong hồn người và từ đó khái quát lên những vấn đề muôn thuở của nhân sinh, của hiện thực và lịch sử.

– Văn học phản ánh và nhận thức đời sống thông qua việc xây dựng thế giới hình tượng. Hình tượng nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ, là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ, nó kết tinh trong đó tất cả tài năng và tâm hồn, trí tuệ và tình cảm, những suy tư, chiêm nghiệm, những thông điệp sâu sắc mà tác giả muốn truyền gửi tới người đọc nhiều thế hệ. Hình tượng chính là phương tiện giao tiếp quan trọng giữa nhà văn và độc giả, là thước đo tầm vóc của nhà văn và định giá giá trị tác phẩm.

=> Nhận định đúng đắn, cho ta căn cứ tương đối chuẩn xác và đầy đủ để đánh giá giá trị thực sự của tác phẩm nghệ thuật.

Phân tích chứng minh làm sáng tỏ nhận định

Luận điểm 1: Tài năng của nhà văn trong xây dựng hình tượng thể hiện qua hai câu đề:

Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

+ Bằng cách sử dụng những vật dụng quen thuộc của người dân lao động cho thấy cảnh nghèo khó nhưng an nhàn, thanh bình biết bao.

+ Tâm trạng của nhà thơ là tâm trạng của một kẻ sĩ “an bần lạc đạo” vượt lên trên nỗi lo lắng bon chen của đời thường để tìm đến thú vui của ẩn sĩ.

Luận điểm 2: Tâm hồn và tình cảm, cái gốc nhân đạo sâu vững của nhà văn được thể hiện qua hai câu thực, luận

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

+ Cách sử dụng phép đối: dại >< khôn, nơi vắng vẻ >< chốn lao xao, cách xưng hô “ta”, “người”cho thấy được sự khác nhau giữa lối sống của tác giả và người đời thường. Ông cho rằng nơi vắng vẻ là nơi thôn quê yên bình ở đó không còn bon chen chốn quan trường, đây mới thực là cuộc sống.

+ Cuộc sống giản dị không cần những thứ giàu sang hào nhoáng chỉ là sản vật từ nhiên nhiên “măng trúc” “giá” -> Thấy được cuộc sống an nhàn, đạm bạc thanh cao, lối sống hòa nhập với thiên nhiên của tác giả.

Luận điểm 3: Sự thông minh, trí tuệ của nhà văn trong tư tưởng của tác phẩm, những suy tư, chiệm nghiệm vượt lên mọi không gian và thời đại của nghệ sĩ trong tác phẩm được thể hiện qua hai câu kết.

Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý, tựa chiêm bao

+ Xem nhẹ lẽ đời sống sa hoa phú quý, ông ngậm ngùi coi đó như một giấc chiêm bao.

+ Lối sống thanh cao vượt lên trên lẽ đời thường

Đánh giá mở rộng

Đây là ý kiến đúng đắn, làm nổi bật được đặc trưng của văn học.

– Nhận định đã đặt ra yêu cầu đối với người sáng tác và người tiếp nhận:

+ Người sáng tác: mài sắc tư tưởng, tình cảm, trau dồi tài năng.

+ Người tiếp nhận: nâng cao vốn hiểu biết, văn hóa, có khả năng khám phá chiều sâu tư tưởng và những thông điệp vượt thời đại đặt ra trong tác phẩm.

Kết bài

– Khẳng định lại vấn đề những giá trị về nội dung và nghệ thuật

– Liên hệ bản thân.

BÀI VIẾT THAM KHẢO 

Lê Quý Đôn từng cho rằng:“Thơ khởi phát từ lòng người ta”, chứa đựng biết bao nhiêu rung cảm, trăn trở nơi người cầm bút. Một tác phẩm thơ chân chính, muốn vượt lên sức mạnh của thời gian, của lòng người, ẩn chứa trong đó những tình cảm thật, suy nghĩ thật và phải được viết lên từ mồ hôi và nước mắt của nhà thơ. Với “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã gửi tới người đọc những quan niệm, triết lí sâu sắc về con người, thời đại mà cho đến tận ngày nay người ta vẫn phải suy ngẫm.

“Nhàn” là bài thơ Nôm nằm trong tập “Bạch Vân quốc ngữ thi”. Nhan đề bài thơ là do người đời sau đặt. Bài thơ như lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hòa hợp với tự nhiên, giữ được cốt cách thanh cao, khí tiết cương trực, vượt lên trên những danh lợi tầm thường. Xuyên suốt bài thơ “Nhàn” là tâm hồn tràn ngập niềm vui và sự thanh tịnh trong tâm hồn tác giả. Có thể xem đây là điểm nhấn, là tinh thần chủ đạo của bài thơ. Chỉ với 8 câu thơ đường luật nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mang đến cho người đọc một cuộc sống an nhàn nơi đồng quê êm ả.

Cũng giống như Nguyễn Trãi, sống giữa một thời đại loạn lạc, đầy biến động, nơi mà các giá trị truyền thống đạo đức bị đảo lộn, con người trở nên vụ lợi hơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tìm về với cuộc sống nơi thôn dã, vui với việc “cày nhàn câu vắng”, tự mình thích thảng với lòng mình, tạm quên hết sự đời “dầu ai vui thú nào”. Gửi chí hướng về nơi thôn dã, cuộc sống của thi nhân nơi thôn quê hiện lên như một “lão nông chi điền”

Như chúng ta đã biết văn chương cùng sức mạnh kì diệu của mình đã kết nối nhà thơ với hồn sống thiêng liêng ở thế gian và mở ra những cánh cửa thần kì giúp bạn đọc thấu hiểu thời đại, tâm hồn của người nghệ sĩ dù đã trải qua hàng thế kỉ. Bài thơ mở đầu bằng phép liệt kê kết hợp với điệp từ “một” đã gợi mở ra một cuộc sống đơn sơ, chất phác với những công cụ lao động quen thuộc của người dân quê. Một cuộc sống thuần phác, giản dị với “mai”, “cuốc” và “cần câu” nhưng an nhàn và thanh tao.

Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”.

Trong thơ Đường luật hay sử dụng những hình ảnh ước lệ, trang nhã hơn là những hình ảnh cụ thể, bình dị như mai, cuốc, cần câu. Số từ trong câu thơ trên cũng là con số thực chứ không phải là những con số ước lệ. Mai dùng để đào đất, cuốc dùng để xới đất, cần câu để câu cá. Đó là những nông cụ lao động dân dã của người nông dân. Với cách điệp số từ một…một…một, tạo nhịp điệu chậm rãi, câu thơ thể hiện tư thế sẵn sàng của Nguyễn Bỉnh Khiêm cho một cuộc sống bình dị, giản đơn. Có thể gọi đây là hiện tượng phá vỡ tính quy phạm và là một cách Việt hóa thể thơ Đường luật. Nguyễn Bỉnh Khiêm chấp nhận cuộc sống cần lao của một lão nông tri điền, mặc cho người đua đòi chạy theo bao thú vui phù phiếm, ông vẫn giữ tâm thế bình thản, điềm nhiên với cuộc sống thanh bần mình đã chọn. Trước hết ta phải hiểu cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là kiểu nhàn hưởng lạc, nhàn lười biếng vì không quan tâm sự đời. Người xưa thường cho rằng “nhàn cư vi bất thiện”, người quân tử có học không bao giờ để thân mình được thảnh thơi. Nguyễn Bỉnh Khiêm hướng đến cái nhàn trong tâm, không vướng bận danh lợi đua chen, tâm nhàn chứ thân không nhàn. Là vị quan từ bỏ cân đai áo mão, ông trở về cuộc sống lao động vất vả, tự cung tự cấp rất lương thiện của những người nông dân nghèo, ông vẫn phải lao động để nuôi sống mình chứ không trông cậy vào bất kì ai, không mang theo vàng ngọc chốn quan trường để về quê hưởng lạc.

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đưa được cái bình dị, dân dã vào thơ ca chứ không chỉ là những điển tích, điển cố cũ kĩ trở thành mẫu mực của thơ Đường trong cuộc sống lao động vì thế nó không đem cảm giác mệt mỏi, khổ cực mà lại gợi sự ung dung trong niềm vui của nhà thơ. Vui vì được lao động, sống giản dị như bao người dân bình thường khác, chẳng bon chen với đời, ganh đua cùng người như những kẻ trong vòng danh lợi kia. Để rồi sau những giây phút chăm chỉ cùng “cuốc”, “mai” là hình ảnh với chiếc “cần câu” gợi đến công việc kiếm sống trong dáng vẻ trầm ngâm ngắm nhìn mây trời, thả hồn cùng ao hồ, bên những chú cá chốc chốc lạ lẫm ngoi lên đớp vài giọt nước, đùa nghịch rồi thẹn thùng lặn ngay, đó chẳng phải một thú vui và những giây tĩnh lặng, thảnh thơi thi vị mà ai cũng ao ước ở đời hay sao? Dáng vẻ trầm ngân ấy như hiện rõ hơn trong ánh nhìn “Thơ thẩn” qua từ láy tượng hình gợi tư thế, dáng điệu chậm rãi thong dong, như đang ngẩn ngơ trước cảnh đẹp, bỗng ngưng lại trong khoảnh khắc tinh khôi mà cuộc đời gửi nơi lòng người. Hay “Thơ thẩn” còn là giây phút tận hưởng đâu nhớ, không quên, chẳng buồn chỉ có niềm vui, thanh thản, nhẹ bẫng như mây trong tim thi nhân mà thôi. Hình ảnh ấy, dáng vẻ đó, cần câu kia gợi cho ta đến dư âm tiếng lòng mà Nguyễn Khuyến cũng từng thả cần câu cá năm nao:

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Chiếc chìa khóa ngôn từ được thi sĩ Tam Nguyên Yên Đổ mở ra như tràn ngập băn khoăn, có chút buồn, cô đơn ôm gối để chờ đợi cá đớp mồi trong thoảng thốt bởi tâm trí ông giờ đây đâu nằm ở chiếc cần câu, đó là tinh thần của một con người “Thân nhàn nhưng tâm không nhàn”, thì rõ ràng Nguyễn Bình Khiêm lại khác hiện lên trên nền cuộc sống là dáng vẻ thảnh thơi, an yên, không suy tư thế sự. Chẳng vậy mà, câu thơ của ông như một cuộc dạo chơi không có chủ đích song lại rất chủ động trong việc dùng biện pháp đảo ngữ đẩy từ “thơ thẩn” lên đầu nhấn mạnh phong thái ung dung, khác biệt của mình với thế giới xung quanh cùng nhịp thơ 2/5 tách nhịp điệu thành hai vế, một bên trạng thái “thơ thẩn” mà Trạng Trình có  với một bên “dầu ai vui thú nào” – chính là cuộc sống ngoài kia, lựa chọn của số đông. Thế nên, tiếng nhạc lòng tác giả âm vang không một chút băn khoăn, đắn đo trong gió, bên mây, cùng nước, cỏ cây, hoa lá cũng là lời khẳng định chắc nịch, nhẹ nhàng của con người đã thấu triết lý cuộc đời, tỏ bản chất thế sự, hiểu mong muốn bản thân mình. Có thể thấy vẻ đẹp giản dị, tự nhiên của tiếng thơ cất lên được thể hiện ngay từ cách lựa chọn từ ngữ, giọng điệu thơ nhẹ nhàng, du dương, bay bổng tựa bản tình ca đẹp đẽ đưa con người vào thế giới thần tiên kì diệu, lánh xa trần thế, đúng như Phan Huy Chú từng nhận xét về Trạng Trình: “Văn chương ông tự nhiên nói ra là thành, không cần gọt giũa, giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị, đều có quan hệ đến việc dạy đời”.

Mỗi bạn đọc khi đến với một tác phẩm văn chương, tắm mình trong ngôn từ đẹp đẽ, khơi mở tâm hồn cùng triết lí sống của nhà thơ, chính là hành trình ta tự hoàn thiện bản thân để hiểu mình, yêu đời, trân trọng cuộc sống hơn. Do đó, đọc những tiếng thơ như mật ngọt, hoa thơm vang lên của Nguyễn Bình Khiêm ta như mở ra trước mắt là bài học cao đẹp nơi cuộc sống, lẽ đời với thông điệp nhàn không phải sự tìm kiếm đó là việc lựa chọn:

“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao”.

“Dại” hay “khôn”, “giỏi” hoặc “ngu ngơ” vốn thuộc về tư duy của một con người, song vang vọng bên câu thơ lại chẳng tồn tại dưới dạng thức ta vốn nghĩ, mà là nhận thức trong tâm tưởng con người về lẽ đời. Thế nên, dù hai câu thơ này đã phá vỡ tính quy phạm của văn học trung đại, khi nó thực hiện chức năng bàn luận chứ không mang tính tả thực, để mở rộng bàn bạc về nhàn, lối sống với những lựa chọn của bản thân qua phép đối rất độc đáo. Một bên là “ta” với “dại” ở nơi “vắng vẻ” biến ngẫu cùng “người” “khôn” bên “chốn lao xao”, sự đối lập ấy vô tình lại gắn kết bền chặt với nhau để tạo thành hô ứng về những lựa chọn thanh cao khiến ta phải ngẫm ngợi chẳng biết “ta dại”, “người khôn” hay cái dại khôn ấy thật khó phân tách trong suy nghĩ và lựa chọn về lối sống của riêng mình. Bởi suy cho cùng “Ta” muốn ở nơi vắng vẻ chính là tìm đến chốn thiên nhiên thuần khiết để sống tự do, an yên, giữ cho tâm hồn thảnh thơi, nhân cách thanh tao. Đó không phải lánh đời, xuất thế mà là cách lựa chọn để làm những điều mình thích, để rũ sạch bụi trần. Còn “người”? “Người” tới “chốn lao xao” nơi quan trường ồn ã, xô bồ, chỗ danh lợi bon chen, tranh giành về quyền lợi, vật chất, tiền tài, rồi vì “lao xao”, ganh ghét con người sẵn sàng làm mọi hành động trái với luân thường đạo lý mà đạt được mục đích của riêng mình. Nguyễn Bỉnh Khiêm tự nhận mình là “dại” còn cho rằng người là “khôn” vì dại – khôn đối lập nhau mà những lựa chọn, nghĩ suy ở đời cũng trái ngược hẳn, thế nên triết lý ấy đã từng được ông nói một cách đầy ẩn ý, sâu sắc lại pha chút mỉa mai:

“Khôn mà hiểm độc là khôn dại
Dại mà thật thà ấy dại khôn”.

Bởi vậy, đọc đến đây ta mới vỡ ra thông điệp cao quý mà con người ấy gửi gắm, hóa ra “Dại” của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cái “dại” của một bậc hiền triết, với trí tuệ lớn, nhân cách đẹp, người thấu tỏ lẽ thịnh suy, vong tồn của một cuộc sống, chọn lối sống thanh thản tự nhiên, khác xa người đời.

Tố Hữu đã từng nói ““Thơ chỉ bật ra trong tim ta khi cuộc sống đã tràn đầy”, và chắc hẳn “Nhàn” cũng là những tiếng lòng Trạng Trình được bật lên khi nhựa sống của ông về đời đã ăm áp, mê say. Chẳng vậy mà, không chỉ là những thứ trừu tượng xa xôi, nhàn còn ở ngay trong những sinh hoạt đời thường, với cảm nhận về cuộc sống xung quanh tươi đẹp:

“Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.

Chỉ cùng vài nét vẽ thanh thoát trên trang thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm như muốn kể ra những sinh hoạt thường ngày mộc mạc, tự nhiên qua bốn mùa Thu – Đông – Xuân – Hạ được nhắc tới bằng bức tranh tứ bình hay tứ quý, qua đó gợi thời gian quanh năm với những sản vật đặc trưng. Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn một lối sống hòa hợp bên thiên nhiên, trong sinh hoạt bốn mùa tràn đầy hương vị và màu sắc, bằng điệp từ “ăn”, “tắm” được lặp lại kết hợp với các hình ảnh liệt kê “măng trúc”, “giá”, “hồ sen”, “ao” cùng với các từ chỉ thời gian, câu thơ đã khắc họa được nếp sinh hoạt đều đặn, tuần hoàn, quy cũ của thi nhân nơi làng quê. Sự giản dị ở đây là những món ăn dân dã, đạm bạc có sẵn trong tự nhiên thuần khiết, thuận theo “mùa nào thức ấy”, chẳng phải nhọc công, vất vả tìm kiếm mà luôn có sẵn, gần gũi, quen thuộc. Thế nhưng, nếu soi thấu từng câu tha ta lại nghiệm ra rằng, ông không chỉ  nhắc tới “trúc” và “sen” như món ăn thường thấy trên mâm cơm của mình, mà ở đó còn gợi phẩm chất, khí tiết thanh cao nơi người quân tử. Để rồi, từ đó người đọc nhận ra một khía cạnh thật đặc biệt khác nữa của nhàn, lối sống thuận theo tự nhiên, hòa hợp giữa con người với vạn vật xung quanh bên mình. Dường như triết lý sống ấy của Nguyễn Bỉnh Khiêm có nét gần gũi với cái đẹp “vô vi” của Đạo giáo hay sự thoát tục nơi cửa Phật, nhưng ẩn sâu trong đó chính là tinh thần sống thanh cao, khí tiết đạm bạc để giữ gìn nhân cách của bậc đại nho. Trong văn học trung đại các nhà nho thi sĩ thường sáng tác theo một mẫu, công thức có sẵn, ở đây Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng tuân thủ những quy tắc ấy trong việc miêu tả bức tranh sinh hoạt theo bốn mùa, dù không được sắp xếp theo trật tự quy luật của tự nhiên nhưng vẫn nằm trong vòng tuần hoàn theo thời gian khép kín “thu” qua, “đông” lại, “xuân” sang, “hè” về. Chính vì quan niệm về thời gian ấy mà con người sống rất ung dung, tự do, tự tại tận hưởng cuộc đời một cách nhàn tản, an yên không chút vướng bận với cõi nhân gian. Như vậy có thể thấy, nhàn không chỉ nơi công việc, ở lựa chọn mà nhàn còn hiện hữu trong chính những sinh hoạt thường ngày mà mỗi con người đều có thể theo đuổi, hướng tới khi thật sự đã “Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến”.

Trong cuộc đời không phải ai cũng có thể thnah tịnh lòng mình mà chọn cuộc đời lùi về phía sau, tránh xa danh lợi phù du, thế nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã làm được điều đó, để rồi sau giây phút ngộ ra lễ đời là khoảnh khắc ông ung dung trong dáng điệu:

Rượu đến bóng cây ta hãy uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.

Mở ra trên nền thiên nhiên mờ ảo trong hai câu thơ là bóng hình một con người đắc đạo, thấm nhuần lẽ sống đang ung dung bên li rượu say sưa nhìn đời tựa cảnh bồng lai thật đẹp đẽ, khác lạ. Khác lạ bởi cái cách tác giả đã sử dụng điển tích Thuần Vu Phần uống rượu say nằm ngủ dưới gốc cây hòe rồi mơ thấy mình ở nước Hoè An được công danh, phú quý rất mực vinh hiển, sau bừng tỉnh dậy thì hóa ra đó chỉ là một giấc mộng, dưới cành hòe chỉ có tổ kiến mà thôi. Sử dụng điển tích ấy, tác giả đã nói lên thái độ coi thường công danh phú quý, bởi danh lợi, tiền bạc đối với ông chỉ là cuộc sống của những kẻ xấu xa, tầm thường, điều ông vẫn căm ghét và phê phán trong bài thơ “Thói đời”:

“Ở thế mới hay người bạc ác
Giàu thì tìm đến khó tìm lui”.

Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm – một người tài hoa, trí tuệ thì phú quý chỉ là một giấc chiêm bao, tỉnh dậy sẽ tan biến, không bao giờ là mãi mãi, điều đó cho thấy một nhân cách lớn một trí tuệ lớn. Hai từ “đến”, “sẽ” được đặt nối tiếp như một sự chủ động đón nhận chứ đâu phải thẳng thốt tiếc nuối như Thuần Vu Phần khi tỉnh mộng năm xưa? Sự ung dung tự tại ấy một lần nữa nâng tầm nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm, để rồi với ánh mắt say sưa của người đứng ngoài ông “Nhìn xem” thế sự bằng vẻ thanh tao, xa lánh danh lợi, cười mỉa mai với những kẻ tham lam trong vòng đua tranh. Nguyễn Bỉnh khiêm đã thoát khỏi cái vòng quay đó để vui với thú vui của mình, tìm đến rượu song liệu chất cay nồng ấy có thực sự để ông say mà vui? Chắc hẳn đằng sau cảnh bồng lai ấy là cả một tâm sự giấu kín, bởi một nhà nho nhưng không thể cống hiến, phụng sự đời, mà ông chọn ở ẩn chẳng phải hèn nhát quá hay sao? Thế nhưng, nếu hiểu thấu thời đại và nhân phẩm của thi nhân ta sẽ thấy sự lựa chọn ấy chỉ vì bất đắc dĩ để giữ gìn nhân cách, xa lánh danh lợi chứ đâu phải là quay lưng với cuộc đời, đất nước, nhân dân. Như vậy, nhàn không chỉ là một trạng thái, một lối sống mà đó chính là một lựa chọn, một nhân cách, một tấm lòng. Nhàn cũng không phải là lánh đời mà chỉ là xa lánh danh lợi, thoát khỏi vòng “hiểm độc”. Nhàn không phải là thoát tục mà là để đề cao nhân cách sống thuận theo tự nhiên dựa trên những thông tuệ về lẽ đời, về nhân thế.

Bằng sáng tạo đọc đáo và tâm hồn tinh tế trong veo tựa dòng nước đầu nguồn, Nguyễn Bình Khiêm đã đem đến những trang thơ vừa trang nhã, bình dị vừa sâu sắc, cao đẹp của một lối sống thanh cao, coi thường phú quý. Chính vì thế, thi phẩm “Nhàn” của ông sẽ luôn vượt qua thử thách thời gian để sống mãi trong lòng bạn đọc, xứng đáng là viên kim cương lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời ở mọi thời đại thơ ca.

Yêu thích

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Mở trang