📘 Tải 100+ tài liệu nghị luận văn học, 100+ đề thi học sinh giỏi ... chỉ 1 Click

Phân tích ý kiến của Sóng Hồng về thơ và làm sáng tỏ qua bài thơ Chợ đồng của Nguyễn Khuyến

Đề bài: “ Thơ là thơ đồng thời là hoạ, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng”  (Sóng Hồng).

    Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua việc phân tích bài  thơ “Chợ đồng” của Nguyễn Khuyến hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
Năm nay chợ họp có đông không?
Dở trời, mưa bụi còn hơi rét.
Nếm rượu, tường đền được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
Dăm ba ngày nữa tin xuân tới.
Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng.

                                           (Trích Chợ Đồng – Nguyễn Khuyễn SGK Văn 8 CTST)

DÀN Ý THAM KHẢO

Mở bài:

– Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận.

– Trích dẫn ý kiến, đề cập đến tác giả tác phẩm sẽ chứng minh.

Thân bài:

Giải thích ý kiến.

– Thơ là thơ: Thơ trước hết phải là chính nó, nghĩa là phải mang đầy đủ những đặc trưng riêng khác với bất kì loại hình nghệ thuật nào: truyện, kịch… Thơ là phương thức trữ tình, là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc được thể hiện bằng một cấu tạo ngôn ngữ đặc biệt.

– Thơ đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng:

+ Thơ – hoạ – nhạc – chạm khắc đều là những loại hình nghệ thuật, song có sự khác biệt, trước hết là chất liệu xây dựng hình tượng nghệ thuật để phản ánh đời sống. Chất liệu của thơ ca là ngôn ngữ – chất liệu phi vật thể có những đặc trưng riêng- vì vậy tác động nhận thức không trực tiếp bằng các loại hình nghệ thuật khác song sức gợi mở của nó lại hết sức dồi dào, mạnh mẽ. Nó tác động vào liên tưởng con người và khơi dậy những cảm nhận cụ thể về màu sắc, đường nét, âm thanh, hình khối.

+ Thơ là họa: Họa có nghĩa là hội họa, đặc trưng ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình, thơ có thể gợi lên trong tâm trí người đọc những hình ảnh, chi tiết sống động, chân thực như bản thân sự sống vốn có, “thi trung hữu hoạ”.

+ Thơ là nhạc: Nhạc là âm nhạc. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính. Tính nhạc của thơ thể hiện ở: thể thơ, cách gieo vần, ngắt nhịp, thanh điệu,… “thi trung hữu nhạc”. Nhạc là cỗ xe chở hồn thi phẩm (Hoàng Cầm).

+ Thơ còn là chạm khắc: Chạm khắc là điêu khắc. Cũng vì tính tạo hình, ngôn ngữ thơ ca có khả năng tạo dựng hình khối, đường nét sống động, chân thực.

+ Một cách riêng: Phong cách nghệ thuật của mỗi nhà thơ.

=> Sóng Hồng đã khẳng định tính chất kì diệu của thơ ca: thơ là thơ nhưng thơ còn có màu sắc, đường nét của hội hoạ, thanh âm của âm nhạc và hình khối của chạm khắc (điêu khắc). Thơ cất tiếng nhờ nhạc, đẹp lên nhờ hoạ và kiêu hãnh vì được thể hiện bằng nét chạm khắc. Tuy nhiên, tất cả những biểu hiện ấy phải được thể hiện theo “một cách riêng” nghĩa là nhà thơ phải có phong cách nghệ thuật độc đáo.

(Cũng như nhận xét của Biêlinxki “Bản thân văn học là toàn bộ nghệ thuật” hay “Thơ là kết tinh của cái đẹp trong mọi hình thức nghệ thuật”).

* Chứng minh qua bài thơ “Chợ đồng”:

+ Hoàn cảnh sáng tác: Nguyễn Khuyến sau khi rời chốn quan trường nhiễu nhương, lui về ở ẩn ở quê nhà, đó là làng Vị Hạ, xã Yên Đổ (nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Làng Vị Hạ có chợ họp ở trong làng, gọi là chợ Và. Hàng năm cứ đến phiên chợ cuối tháng Chạp (chợ sắm Tết) nhân dân lại dời chợ ra họp ở một cánh ruộng mạ phía sau làng, nên gọi là chợ Đồng. Từ năm 1949, quân Pháp về đóng đồn ở làng Vị Hạ thì chợ Và cũng thôi không họp nữa, và tục họp chợ Đồng vào cuối năm cũng mất.

Luận điểm 1: Hình ảnh phiên chợ quê (6 câu đầu)

– Thời gian: Tháng chạp hai mươi bốn – thời gian giáp Tết;

– Không gian: Không gian của chợ quê – khi tan chợ

=> Thời gian gần hết một năm thường gợi lên nhiều suy tư; không gian quen thuộc gợi lên nhịp sống, bộ mặt của mỗi làng quê.

– Hình ảnh phiên chợ: mưa bụi giăng kín, còn vài bô lão ngồi nếm rượu để chuẩn bị mua thứ ngon nhất mà tế lễ thần trong đình. => ẩm đạm buồn tẻ, gợi lên sự nghèo đói.

– Biện pháp nghệ thuật: Đối lập Hàng quán >< Nợ nần, người về >< năm hết, nghe xao xác >< hỏi lung tung Gợi lên không khí buồn của hình ảnh chợ tan, người về xao xác, xen vào đó là âm thanh hỏi – đòi nợ nhau của những người đi chợ.

Hình ảnh được miêu tả trong hai câu thơ đặt trong sự đối lập nhưng bổ sung ý nghĩa cho nhau, tạo ấn tượng về cuộc sống túng thiếu, nợ nần của dân quê. Qua đây cho ta cảm nhận được tâm trạng buồn, xót xa của tác giả.

– Phép đối còn làm cho lời thơ thêm cân xứng, hài hòa.

Luận điểm 2: Tâm tình của thi nhân

– Tính đếm “dăm ba” ngày đến tết, mong móng “tin xuân” trong tiếng pháo đem về những niềm vui, xua tan đói nghèo.

Bài thơ thể hiện tâm trạng buồn bã của Nguyễn Khuyến khi chứng kiến ​​nhịp sống của con người  qua cảnh Chợ Đông. Cuối phiên chợ Tết  chỉ còn lại tiếng đòi nợ, khuyến mại. Năm cũ sắp qua đi, năm mới đang dần đến nhưng nghèo đói vẫn ám ảnh cuộc sống của người dân làng quê. Nỗi buồn khiến nhà thơ chìm vào suy nghĩ, đến nỗi âm thanh “Ôi tiếng pháo tre” dường như đưa nhà thơ  trở về hiện thực.

Đánh giá

– Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú đường luật.

– Phương thức biểu đạt chính trong bài thơ đó chính là biểu cảm.

– Biện pháp ẩn dụ được sử dụng trong trong câu: “Dở trời, mưa bụi còn hơi rét.” – “Dở trời, mưa bụi còn hơi rét” mang hàm nghĩa chỉ cảnh lầm than, nỗi cơ cực của nhân dân, của bà con dân cày nghèo khổ.

– Sử dụng biện pháp đối thông qua hai câu thơ: “Hàng quán người về nghe xáo xác, Nợ nần năm hết hỏi lung tung.“. Nhấn mạnh sự đối lập giữa khung cảnh chợ Đồng, nói lên cái buồn của sự đói nghèo càng được nhân lên khi năm hết Tết đến rồi.

Kết bài:

– Khái quát khẳng định lại vấn đề

– Liên hệ, bài học.

BÀI VIẾT THAM KHẢO

Anđecxen đã từng dôc lòng bày tỏ: “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng câu chuyện cổ tích do chính cuộc sống viết ra”,  phải chăng câu nói ấy ngầm khẳng định một chân lí nghệ thuật vô cùng cao đẹp khi thế giới thần tiên mà bao lần tuổi thơ ta hằng mơ ước tìm đến lại chính là cuộc sống gần gũi, thân thương ngay trước mắt mỗi người, để rồi từ đó nâng giấc cho những dòng truyện, trang thơ bước vào tâm hồn ta một cách êm đềm, ngọt ngào nhất. Thế nên, hiểu rõ quy luật chung của văn chương ấy Nguyễn Khuyến cũng đã nuôi dưỡng những hạt mầm thơ ca của chính mình bằng mảnh đất màu mỡ mang tên đời sống, một trong những hạt mầm đơm hoa kết trái nơi trái tim bạn đọc phải kể đến thi phẩm “Chợ Đồng” – bức tranh làng quê đậm đầ tình quê, tha thiết lòng người:

Tết đến, xuân về lòng ta lại nao nao với biết bao niềm vui, háo hức của ngày gặp gỡ, hăm hở ngắm nhìn khung cảnh nhộn nhịp mà những phiên chợ quê bày biện, chào đón người mua, kẻ bán tấp nập, đông đúc. Chẳng thế mà, Nguyễn Khuyến cũng đau đáu với nét đẹp vốn hiện hữu trong tâm hồn ông từ thuở ấu thơ để rồi gửi gắm tâm tư, tình cảm của mình qua từng con chữ thi sĩ mở lòng bộc bạch:

Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
Năm nay chợ họp có đông không?
Dở trời, mưa bụi còn hơi rét.
Nếm rượu, tường đền được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung
.

Thơ ca bén rễ từ đời sống và chỉ có thể nở hoa thơm ngát khi lòng ta đã đủ đầy yêu thương, và phải chăng điều đó thật đúng với Nguyễn Khuyến trong khoảnh khắc ông kể lại sự hiện diện về phiên “chợ Đồng” với những lời lẽ thật giản dị, bằng cả trái tim mình. Thế nên, giờ đây hiện lên trang viết để chào đón bạn đọc vào âm vang của lòng mình, ông mở ra cánh cửa thời gian bước vào cảnh chợ ngày tết với lời mời gọi đầy tha thiết “tháng chạp hai mươi bốn”, cái ngày thường kì vẫn được họp để buôn bán, trao đổi lại qua trong suốt một thời gian dài của những người dân vốn chân chất, thật thà, mộc mạc quê ông. Để rồi, nghe lời tâm tình ấy bất giác ta nao nao nhớ về quang cảnh những phiên chợ tụ họp nơi ven đê, đầu làng mà ca dao đã từng thân thương, gợi nhớ:

 “Chợ huyện một tháng sáu phiên

 Gặp cô hàng xén kết duyên Châu – Trần”

Hay:

“Chợ Viềng năm có một phiên

 Cái nón em đội cũng tiền anh trao”

Mặc dù, cùng viết về một chủ đề, chung niềm hãnh diện khi được giới thiệu nét đẹp của quê hương, thế nhưng nếu ca dao như mở ra quang cảnh đầy tình tứ giao duyên, gặp gỡ thật đắm say, ngọt ngào mà đôi trai gái hiếm hoi hẹn ước trong những phiên chợ định kì. Thì Nguyễn Khuyến lại như nhẩm tính chợt nhớ ra, giật mình cất tiếng băn khoăn chợ đến ngày rồi song biết “năm nay”, thời gian này người đi chợ ra sao bằng một câu hỏi tu từ thật đặc biệt. Chẳng đặc biệt mà, khi nói về chợ tết là ta sẽ mường tượng đủ những chen chúc, xô bồ, tấp nập, ồn ào chứ sao lại nghi ngại bất giác cất lời “có đông không”, chắc hẳn sau câu ấy hỏi còn thật nhiều ý vị được ẩn giấu khiến mỗi chúng ta ngạc nhiên, thảng thốt. Bởi, nhà thơ tâm sự rằng những năm được mùa, chợ Đồng họp phiên chợ Tết đông vui lắm, nó như sự nô nức đầy đủ, dư giả trong đời sống gợi cảnh no ấm mà ai cũng thầm ước mong. Thế nhưng, trái lại, những năm mất mùa, thưa thớt người mua, chợ vì thế buồn thiu, nép mình bên cánh đồng cô đơn, nhỏ bé, đó cũng là thảm cảnh của nghèo đói, loạn lạc nơi làng quê mà thi nhân vẫn đau đáu mang trong tim mình. Thế nên, chỉ bằng năm tiếng thơ nhỏ bé vang vọng cả không gian “chợ họp có đông không” lại khiến ta nghe như một tiếng thở dài ngân mãi, tràn ra cả trang thơ, lấp đầy ăm ắp tâm hồn thi sĩ mà biến thành nỗi buồn trước cảnh nhân dân thời loạn lạc, đói rét, lầm than. Để rồi, tiếng thở ấy nối tiếp cùng niềm  thương cảm  khi phiên chợ đã nghèo, thi thoảng mới họp một ngày, ấy vậy mà lại gặp thời tiết trớ trêu, thê lương:

Dở trời mưa bụi còn hơi rét,

Uống rượu tường đền được mấy ông

Xuân Diệu từng bày tỏ quan niệm khá “khắt khe” về câu chữ trong từng trang thơ của những người nghệ sĩ, ông cho rằng: “Một bài thơ hay là một sinh vật có cơ thể. Mỗi câu mỗi chữ đứng ở đâu đều có lý do”, có lẽ thấu hiểu được vai trò quan trọng của những kí tự nhỏ bé ấy trong thơ ca, thế nên câu chữ mà Nguyễn Khuyến sử dụng dù ở thời gian gian nào cũng đều được ông trau chuốt, gọt giũa, tỉ mẩm lắm rồi mới thổ lộ với bạn đọc. Chẳng vậy mà, cất lên lời than vãn, như tiếng mắng nhẹ nhàng, lời nói thường ngày nơi những người thôn quê ông vẫn thường dùng “Dở trời”, vang lên mới dân dã, mộc mạc làm sao? Nó chẳng khác là bao hình ảnh chân chất của chính con người ông luôn đắm mình trong những phồn hậu, giản dị đáng quý. “Dở trời” là cái thời tiết, đỏng đảnh, không thuận, thay đổi thất thường, đã thế còn mang theo vài cơn “mưa bụi” liên miên, khiến đường sá, “ngõ trúc quanh co” nơi làng quê lầy lội, bùn hôi, nhớp nháp chỉ còn đọng trên trang văn những “hơi rét” kéo dài. Để từ đó, cái rét trong không gian ấy giờ đây phủ kín làng quê nhỏ, thấm vào cả trong lòng người mà lạnh tê tái, đau thương bởi cảnh nghèo khốn khó đang vây chặt lấy bà con nơi chốn quê lam lũ khiến phiên chợ nghèo hiếm hoi mới tụ họp, nay lại gặp thời tiết ảm đạm, khó khăn, không thuận lợi. Nên chỉ còn lại thưa thớt “được mấy ông” bô lão làng Vị Hạ vẫn ngồi tựa lưng vào tường đền “nếm rượu”, xem thứ rượu nào ngon thì mua mà tế lễ thánh trong dịp Tết đến, xuân về. Một nét bút, vài câu thơ, những con chữ nhỏ nhắn bằng cả tấm lòng nhẹ nhàng được cất lên, thi nhân đã mở ra trước mắt người đọc cả một bầu trời thương nhớ gửi trao trong nét đẹp về phong tục quê hương vẫn được Nguyễn Khuyến nhắc đến với bao tình cảm mến yêu và trân trọng. Nhờ đó lời thơ mang cái đẹp của thi pháp “ý tại ngôn ngoại” mà ta cũng thấm dần nỗi buồn bơ vơ, cô đơn trong trái tim một nhà nho bất đắc chí mà Nguyễn Khuyến đã từng tâm sự:

Đời loạn đi về như hạc độc,

Tuổi già hình bóng tựa mây côi

                                      (Gửi bạn)

Hai câu thơ “Gửi bạn” hôm nào, cộng hưởng cùng hơi thở của phiên chợ Đồng ảm đạm,khe khẽ nép bên đời thơ Nguyễn Khuyến đã gợi lên nét đơn sơ nơi làng quê nghèo mà từ đó cất tiếng nói tràn đầy giá trị hiện thực phản ánh cảnh dân tình miền Bắc nước ta hàng trăm năm về trước, khi rơi vào cảnh lầm than, đô hộ của thực dân. Không chỉ thế, Nguyễn Khuyến còn bộc lộ tài năng văn chương độc đáo, đỉnh cao của một người nghệ sĩ “lành nghề” làm đẹp cho đời bằng con chữ, khi phác họa làng quê nông thôn Việt Nam ghi lại không khí cuộc sống dân dã qua cảnh chợ tan với những âm thanh, tiếng đời cơ cực dội vào trái tim ông:

Hàng quán người về nghe xáo xác,

Nợ nần năm hết hỏi lung tung

Tiếng thơ là tiếng lòng, tâm hồn thi nhân cũng vì thế góp nhặt, khéo léo mà lượm vào trang đời biết bao tâm tư, thổn thức, đủ đầy, do đó có người cho rằng hai dòng thơ như gọi lên không khí rất thực của phiên chợ, thôn quê lúc chợ tan, tiếng lao xao, bon chen đủ đầy hương vị của cuộc sống. Song, Xuân Diệu lại không cho là như vậy, thi sĩ nói: “Xao xác nghĩa là ồn ào mà ngơ ngác. Lung tung là rắc rối, loạn xạ cả lên. Tan chợ, phiên chợ Tết mà chỉ có tiếng đòi nợ, thúc nợ lung tung. Cái nghèo túng đang đè nặng xóm làng quê”. Phải chăng, ánh nhìn sắc sảo của một nhà thơ thấu lẽ đời như Xuân Diệu đã đánh giá rất đắt, đúng đắn chi tiết trong nét thơ mà Nguyễn Khuyến đã đem đến. Để rồi, mở ra trên nền bức tranh quê, kết hợp thủ pháp đối nhà thơ đã gợi rõ không khí phiên chợ nhỏ, chẳng phải cảnh rộn rã, tươi cười, đon đả của người đời, hân hoan, rủng rỉnh chuẩn bị sắm tết, đoàn viên, mà chỉ còn đọng lại vài ba hàng quán mua bán “nghe xáo xác”, ngơ ngác, lộn xộn trong nỗi buồn đói nghèo với bộn bề, lo toan khiến ta đắng ngắt nơi cõi lòng. Từ đó, ta mới thấu hiểu được lẽ đời, triết lý nhân sinh cao cả mà thi sĩ đem đến cùng nỗi xót xa, băn khoăn, trăn trở có nỗi khổ nào lớn hơn cái cơ hàn, nghèo đói? Bao niềm đau đớn mới khỏa lấp hết lo toan, vội vã, oằn mình từng ngày cùng cuộc sống? Xót xa trước câu hỏi đó, nhà thơ trăn trở đi tìm chiếc chìa khóa giải mã cuộc đời, rồi nghe được từng nỗi đời cay cực của nhân dân trong xã hội cũ, nên ông mới thâm thía chỉ ra nguyên cớ của cái nghèo, cảnh đói rét ấy:

Năm nay cày cấy vẫn chân thua,

 Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.

 Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,

 Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.

 Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,

    Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.

(Chốn quê)

Đọc trăn trở của Nguyễn Khuyến ta mới càng chắc chắn khẳng định một chân lí rõ ràng, sáng tỏ: thơ chính là đời, là ngọn nguồn sự sống được chắt chiu mà gửi vào trong từng con chữ. Nên khi trở lại bài “Chợ Đồng” mỗi bạn đọc sẽ thấu hết được sự gom góp nguồn sống về lẽ đời nơi nhân gian mà nhà thơ đã gửi gắm:

Dăm ba ngày nữa tin xuân tới,

Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng

Tiếng thơ như một lời nhẩm tính “dăm ba” đầy bơ vơ, nghẹn ngào của lão nông tri điền, đúng đầu ngõ mà đăm chiêu, thở dài trước khoảnh khắc chỉ vài ba ngày nữa năm cũ dần qua, năm mới sẽ sang mà cái nghèo, đói rét vẫn bủa vây như bóng tối phủ lên từng góc nhà, bao chùm mọi ngõ ngách nơi làng quê nhỏ bé, nằm nghiêng bên đời. Song, nếu đọc kĩ và hiểu thấu trái tim luôn chan chứa tình yêu cuộc đời, thương dân vô bờ bến, thì ta lại thầm cảm ơn Nguyễn Khuyến, bởi có lẽ dù buồn đấy, lo lắng thật nhiều nhưng ẩn chứa trong mỗi lời thơ vẫn tràn đầy hi vọng, mang theo niềm tin mong manh “xuân tới” dân cày mát mặt “nhờ trời” để “được bát cơm no”, mặc manh áo ấm, rồi rộn rã bao niềm vui trước cái âm thanh “đùng” giòn tan nơi tiếng pháo. Chỉ cần nghĩ đến thế thôi mà bao yêu thương lại tràn về, hạnh phúc hiện lên khỏa lấp hết đau đớn, đói nghèo, đen tối của cả một năm trời vất vả nơi thôn quê khiến lòng ta cũng chợt ấm áp theo tiếng thơ mà thi nhân đã gửi lại cho đời hôm nay.

   “Mỗi con trai nhả ngọc một lần thôi
Viên ngọc đầu tiên cũng là viên sau chót
Không như ta sau viên ngọc sau cùng làm viên thứ nhất
Đây là nỗi đau và hạnh phúc của con người.” 

Chợ Đồng của Nguyễn Khuyến là một bài thơ hay, với chất liệu làng quê dân dã, nhưng với một hồn thơ nồng đượm, Nguyễn Khuyến đã khai thác nó bằng nhiều xúc cảm thi vị. Một cảnh vật, một âm thanh vốn rất bình thường nhưng vào thơ ông cũng mang nhiều nỗi niềm hơn cả, đó là nỗi buồn lo cho cuộc sống của nhân dân, nỗi xót xa trước thực cảnh cơ hàn. Cuối cùng sâu xa hơn cả là tấm lòng yêu thương nhân dân, yêu thương đất nước tha thiết, mong cho toàn thể dân tộc ta có một cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn, đặc biệt là trong những ngày cận kề giáp Tết.

Yêu thích

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Mở trang