ĐỀ 10
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh, đánh giá hai đoạn trích sau:
Đoạn trích (1)
Lược một đoạn: Thành là một nhà văn đầy hoài bão, anh đến nhà xuất bản để lấy nhuận bút và đưa bản thảo để xuất bản thêm sách mới. Tuy nhiên khi tới nơi, anh được nhà xuất bản thông báo là sách của anh không được độc giả đón nhận và vì thế không hề bán được, và tất nhiên, họ cũng từ chối xuất bản sách mới cho anh. Thành đành ra về với nỗi thất vọng và sự chua xót ngập lòng.
[…] Đến ngoài đường, lúc bấy giờ Thành mới nhận thấy nỗi thất vọng của mình, và để nó tràn lên cả tâm hồn, không chống cự. Chàng có cái cảm giác bị hụt chân chết ngập trong mối buồn và thấy một nỗi thương thấm thía vô hạn cho chính mình.
Trong những đêm không ngủ ở nhà quê, chàng vẫn mơ tưởng một sự thành công rực rỡ xứng đáng với tài năng. Những lúc đó, Thành sung sướng như nhấp chén rượu mạnh mà hơi men làm say sưa dần dần. Chàng tưởng sách của chàng đã được thiên hạ hoan nghênh nhiệt liệt, các báo đua nhau tán thưởng, và bán chạy hết ngay trong tháng xuất bản. Ông Xuân sẽ để một tập bạc trên bàn, tiếp chàng niềm nở và nói nịnh:
– Sách của ông bán chạy quá. Thật, tôi chưa từng thấy nhà văn nào được hoan nghênh như ông.
Thành sẽ cười nhã nhặn và kín đáo, nhận lời khen ấy như một người không quan tâm đến sự nhỏ mọn về danh vọng ấy. Chàng sẽ đưa trình cuốn “Mơ xưa”, sẽ được ông Xuân trân trọng đỡ lấy và vui vẻ nhận xuất bản ngay.
Nhưng sự thực… Môi Thành sẽ nhếch hơi chua chát, và chàng tự hỏi không biết có nên chế giễu mình không. Chàng không nghĩ đến đi chơi trong Hà Nội nữa, thuê ngay xe ra ga lấy vé. Thành muốn rời bỏ ngay cái tỉnh lãnh đạm này, mong lại thấy căn phòng nhỏ ấm áp của chàng, cái bàn viết có bóng cây trong vườn lung lay trên mặt, mỗi khi ánh nắng chiếu ngang. […]
(Trích truyện ngắn Cuốn sách bỏ quên, Thạch Lam, Thạch Lam những tác phẩm tiêu biểu, NXB Giáo dục, 2003, trang 59-60)
*/ Thông tin tác giả, tác phẩm
– Tác giả: Thạch Lam: 1910-1942. Tên khai sinh Nguyễn Tường Vinh, sau đổi là Nguyễn Tường Lân. Bút danh Việt Sinh. Là người đôn hậu và tinh tế, rất thành công ở truyện ngắn. Ông chủ yếu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ. Mỗi truyện ngắn như một bài thơ trữ tình.
– Tác phẩm: được viết năm 1938, trong bối cảnh Việt Nam đang trải qua nhiều biến động về kinh tế, xã hội khi hững chịu sự chi phối của thực dân Pháp. Truyện được in trong tập “Nắng trong vườn” (1938).
Đoạn trích (2)
Lược một đoạn: Hộ là một văn sĩ cẩn trọng và chỉn chu trong nghề cầm bút. Anh không bao giờ cho phép bản thân vì tiền mà viết lách cẩu thả, qua loa. Chính vì vậy, anh chấp nhận nghèo và sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ. Tuy nhiên, từ khi có vợ con, anh đã bắt đầu đổi khác.
[…] Thế rồi, khi đã ghép đời Từ vào cuộc đời của hắn, hắn có cả một gia đình phải chăm lo. Hắn hiểu thế nào là giá trị của đồng tiền; hắn hiểu những nỗi đau khổ của một kẻ đàn ông khi thấy vợ con mình đói rách. Những bận rộn tẹp nhẹp, vô nghĩa lý, nhưng không thể không nghĩ tới, ngốn một phần lớn thì giờ của hắn. Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc. Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách hay một đoạn văn ký tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng vò nát sách và mắng mình như một thằng khốn nạn… Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương! Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa. Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có… Hắn nghĩ thế và buồn lắm, buồn lắm! Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt? Hắn để mặc vợ con khổ sở ư? Hắn bỏ liều, hắn ruồng rẫy chúng, hắn hy sinh như người ta vẫn nói ư? Ðã một vài lần hắn thấy ý nghĩ trên đây thoáng qua đầu. Và hắn nghĩ đến câu nói hùng hồn của một nhà triết học kia: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ”. Nhưng hắn lại nghĩ thêm rằng: Từ rất đáng yêu, rất đáng thương, hắn có thể hy sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỷ đi; nhưng hắn không thể bỏ lòng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường, nhưng hắn vẫn còn được là người: hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái. Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình. Và lại hèn biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi vợ, con thì còn mong làm nên trò gì nữa?… Hắn tự bảo: “Ta đành phí đi một vài năm để kiếm tiền”.
(Trích truyện ngắn Đời thừa, Nam Cao, Tuyển tập Nam Cao, tập 2, NXB Văn học, 2003, trang 7-8)
*/ Thông tin tác giả, tác phẩm
– Nam Cao (1917-1951) tên thật là Trần Hữu Tri, quê ở Lý Nhân, Hà Nam. Sáng tác của ông trước Cách mạng thường xoay quanh đời sống cơ cực của người nông dân và các bi kịch của người trí thức nghèo ở thành thị. Nam Cao khẳng định vị trí trong lịch sử văn học bằng thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Ông chú trọng diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật, xây dựng các tính cách phức tạp, thực hiện nhiều đột phá trong nghệ thuật tự sự với lối trần thuật phối hợp nhiều điểm nhìn, giọng điệu, kết cấu linh hoạt, cách sử dụng ngôn ngữ sinh động, vừa gần gũi với ngôn ngữ giao tiếp đời thường, vừa giàu suy tưởng.
– Tác phẩm: Tác phẩm “Đời thừa” đăng trên “Tiểu thuyết thứ 7” số 490, số ra ngày 4/12/1943
————————–HẾT————————-
Hướng dẫn làm dàn bài
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề của bài viết
– Xác định được các ý chính của bài viết – Sắp xếp được các ý hợp lí theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận: 1. Mở bài: + Giới thiệu tác phẩm “Cuốn sách bị bỏ quên” của Thạch Lam và “Đời thừa” của Nam Cao + Nêu mục đích: so sánh để thấy điểm giống và khác giữa hai tác phẩm + cơ sở của việc so sánh, đánh giá: căn cứ vào nội dung và nghệ thuật 2. Thân bài: * Khái quát về nét chung của hai tác phẩm: hoàn cảnh ra đời, đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật, vị trí của tác phẩm trong đời sống văn học…) – Khái quát chung: + Thông tin khái quát văn bản “Cuốn sách bị bỏ quên” của Thạch Lam: ++ Truyện được viết năm 1938, trong bối cảnh Việt Nam đang trải qua nhiều biến động về kinh tế, xã hội khi hững chịu sự chi phối của thực dân Pháp. Truyện được in trong tập “Nắng trong vườn” (1938). ++ Đề tài: Người trí thức trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. ++ Chủ đề: Qua nhân vật Thành, tác giả đề cao khát vọng sáng tác nên những tác phẩm có giá trị của nhà văn chân chính. ++ Cốt truyện: Sau khi bị từ chối bản thảo, Thành xót xa, thất vọng. Sau đó chàng tưởng đến những lúc thành công, tác phẩm của chàng được đón nhận và hạnh phúc dâng trào. Nhưng quay lại sự thât vẫn là buồn đau và chàng có ý định rời đi khỏi cái tỉnh này. ++ Nhân vật chính là Thành, một văn sĩ đầy nỗ lực và khát khao thành công nhưng những tác phẩm đầy tâm huyết của anh lại bị từ chối. ++ Vị trí của tác phẩm trong đời sống văn học: vị trí quan trọng. + Thông tin khái quát văn bản “Đời thừa” của Nam Cao ++ Tác phẩm “Đời thừa” đăng trên “Tiểu thuyết thứ 7” số 490, số ra ngày 4/12/1943 ++ Đề tài: người trí thức trước Cách mạng tháng tám năm 1945 ++ Chủ đề: Qua nhân vật Hộ, tác giả xoáy sâu vào bi kịch tinh thần của người trí thức trước cách mạng. Qua đó, tác giả thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc đồng thời gián tiếp truyền đạt quan điểm về nghệ thuật và vai trò của người nghệ sĩ. ++ Cốt truyện: Để kiếm tiền trang trải cho gia đình mà Hộ phải viết nhanh viết vội ra những tác phẩm đáng xấu hổ. Đọc lại những tác phẩm ấy, Hộ đỏ mặt, tự trách bản thân mình. ++ Nhân vật chính là nhà văn Hộ, một văn sĩ có hoài bão lớn và rất cẩn trọng, chỉn chu trong nghề nhưng bị gánh nặng cơm áo gạo tiền đè nặng mà trở nên cẩu thả, bất lương khi cầm bút. ++ Vị trí của tác phẩm trong đời sống văn học: vị trí quan trọng. * Những điểm tương đồng giữa hai tác phẩm truyện và nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng ấy -Tương đồng về nội dung: Đều viết về đề tài người trí thức trước cách mạng tháng Tám. Đều cho thấy những khó khăn trong việc thực hiện lí tưởng văn chương của họ. Đặc biệt cùng xoáy sâu vào bi kịch tinh thần của họ khi ước mơ cao, khát vọng sâu nhưng thực tế lại thất bại nặng nề. Để rồi họ rơi vào sự thất vọng, đau đớn, tự dày vò bản thân. Từ đó các tác phẩm lột tả được hiện thực về cuộc sống của người trí thức trước Cách mạng tháng tám. Đồng thời ta thấy được tinh thần nhân đạo sâu sắc cùng những quan niệm nghệ thuật đúng đắn của các nhà văn -Tương đồng về nghệ thuật: +Đều dùng thể loại truyện ngắn, +Đều chọn ngôi kể thứ ba của người kể chuyện toàn tri, khiến cho câu chuyện trở nên khách quan. +Điểm nhìn chủ yếu là nhân vật chính. Với điểm nhìn từ bên trong, cả hai tác giả rất thành công với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Chẳng hạn, từ điểm nhìn của Thành mà ta thấy được nỗi thất vọng Thành để nó tràn lên cả tâm hồn, không chống cự. Chàng có cái cảm giác bị hụt chân chết ngập trong mối buồn và thấy một nỗi thương thấm thía vô hạn cho chính mình. Còn Hộ thì cảm thấy mình khốn nạn, bất lương; có khi hắn tự nhủ phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ, nhưng rồi lại tự kiểm điểm mình hèn biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi vợ, con thì còn mong làm nên trò gì nữa… -Nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng: do Thạch Lam và Nam Cao đều là những nhà văn chân chính, có sự thấu cảm sâu sắc với giới trí thức đương thời. Thế mạnh của cả ngòi bút đều là biệt tài khai thác tâm lí con người * Những điểm khác biệt giữa hai tác phẩm truyện và điều kiện làm nên sự khác biệt ấy. -Khác biệt về nội dung: +Truyện “ Cuốn sách bị bỏ quên” của Thạch Lam khai thác người trí thức ở góc độ nghề nghiệp. Thành tâm huyết với tác phẩm nhưng bị nhà xuất bản từ chối nên sinh ra đau khổ. Từ đó nhà vă muốn phát biểu hiện thực cuộc sống vốn không màu hồng như khi ta mơ ước. Nhà văn phải biết đối diện với thực tế nhưng vẫn không được từ bỏ đi những ước mơ tốt đẹp. +Truyện “ Đời thừa”của Thạch Lam khai thác phạm vi rộng hơn về nguyên nhân bi kịch của người trí thức. Lí tưởng văn chương bị bóp chết là bởi sự trì níu của gánh nặng cơm áo gạo tiền. Trong bi kịch văn chương của Hộ có cả sự cộng hưởng của bị kịch về lẽ sống tình thương. Qua sự giằng xé gay gắt trong nội tâm của Hộ, Nam Cao gián tiếp phát biểu quan niệm về văn chương chân chính và trách nhiệm của nhà văn. Nhà văn phải có lương tâm nghề nghiệp trong đó đề cao sự sáng tạo và phải lấy lẽ sống tình thương làm đầu. -Khác biệt về nghệ thuật + “Cuốn sách bị bỏ quên” của Thạch Lam có giọng điệu nhẹ nhàng khi miêu tả sự thất vọng của Thành, trong khi Nam Cao lại sử dụng một giọng văn sắc lạnh như cưa, như chém tự trong lương tâm nhà văn Hộ; +Lời kể chuyện của Thạch Lam phân biệt rõ ràng giữa lời người kể và lời nhân vật. Còn trong “ Đời thừa”, lời người kể và lời nhân vật có khi giao hòa, khó phân định rạch ròi. Ví dụ: Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Chính đặc điểm này của ngôn ngữ tạo nên tính đa thanh cho tác phẩm. -Nguyên nhân của sự khác biệt: do mỗi nhà văn có một phong cách nghệ thuật khác nhau. * Đánh giá chung về sự tương đồng và khác biệt giữa hai tác phẩm truyện và khẳng định giá trị độc đáo của mỗi tác phẩm: Đó là những sự tương đồng và khác biệt thú vị giữa hai tác phẩm. Cùng trên một đề tài nhưng hiện thực cuộc sống, thông điệp, quan điểm và phong cách nhà văn lại mỗi người một vẻ.
3. Kết bài: – Nêu ý nghĩa của việc đánh giá các tác phẩm truyện khi đặt chúng trong tương quan so sánh. Đặt 2 tp trong tương quan so sánh giúp chúng ta nhìn nhận sâu hơn giá trị của từng tác phẩm, để từ đó ta thấy được sự phong phú của đề tài người trí thức trong VHVN trước năm 1945, giúp c ta thấy rõ hơn tài năng riêng của từng tác giả.
|
1,0 |
Bài viết tham khảo
Nguyễn Minh Châu đã từng viết: “Nhà văn chân chính là người suốt đời đi tìm kiếm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người, để rồi bằng tài năng và trái tim của mình, mang những hạt ngọc ấy ra ánh sáng, soi rọi và làm đẹp cho đời.” Và ta thấy được sự chân chính ấy qua Thạch Lam với tác phẩm “ Cuốn sách bị bỏ quên” và Nam Cao với tác phẩm “ Đời thừa”. Căn cứ vào nội dung và hình thức nghệ thuật, ta thấy được những sự tương đồng và khác biệt giữa hai tác phẩm này
Trước hết, “Cuốn sách bị bỏ quên” của Thạch Lam được viết năm 1938, trong bối cảnh Việt Nam đang trải qua nhiều biến động về kinh tế, xã hội khi hững chịu sự chi phối của thực dân Pháp. Truyện được in trong tập “Nắng trong vườn” (1938). Đề tài của truyện là người trí thức trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chủ đề là tác giả đề cao khát vọng sáng tác nên những tác phẩm có giá trị của nhà văn chân chính. Về cốt truyện: Sau khi bị từ chối bản thảo, Thành xót xa, thất vọng. Sau đó chàng tưởng đến những lúc thành công, tác phẩm của chàng được đón nhận và hạnh phúc dâng trào. Nhưng quay lại sự thât vẫn là buồn đau và chàng có ý định rời đi khỏi cái tỉnh này. Có thể thấy nhân vật chính là Thành, một văn sĩ đầy nỗ lực và khát khao thành công nhưng những tác phẩm đầy tâm huyết của anh lại bị từ chối. Tác phẩm có vị trí quan trọng trong đời sống văn học. Còn tác phẩm “Đời thừa” đăng trên “Tiểu thuyết thứ 7” số 490, số ra ngày 4/12/194. Đề tài: người trí thức trước Cách mạng tháng tám năm 1945. Chủ đề là qua nhân vật Hộ, tác giả xoáy sâu vào bi kịch tinh thần của người trí thức trước cách mạng. Qua đó, tác giả thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc đồng thời gián tiếp truyền đạt quan điểm về nghệ thuật và vai trò của người nghệ sĩ. Cốt truyện: Để kiếm tiền trang trải cho gia đình mà Hộ phải viết nhanh viết vội ra những tác phẩm đáng xấu hổ. Đọc lại những tác phẩm ấy, Hộ đỏ mặt, tự trách bản thân mình. Nhân vật chính là nhà văn Hộ, một văn sĩ có hoài bão lớn và rất cẩn trọng, chỉn chu trong nghề nhưng bị gánh nặng cơm áo gạo tiền đè nặng mà trở nên cẩu thả, bất lương khi cầm bút.Cũng như tác phẩm trên, “Đời thừa” có vị trí quan trọng trong đời sống văn học.
Giữa hai tác phẩm có nét tương đồng thú vị. Về nội dung: Đều viết về đề tài người trí thức trước cách mạng tháng Tám. Đều cho thấy những khó khăn trong việc thực hiện lí tưởng văn chương của họ. Đặc biệt cùng xoáy sâu vào bi kịch tinh thần của họ khi ước mơ cao, khát vọng sâu nhưng thực tế lại thất bại nặng nề. Để rồi họ rơi vào sự thất vọng, đau đớn, tự dày vò bản thân. Từ đó các tác phẩm lột tả được hiện thực về cuộc sống của người trí thức trước Cách mạng tháng tám. Đồng thời ta thấy được tinh thần nhân đạo sâu sắc cùng những quan niệm nghệ thuật đúng đắn của các nhà văn. Về nghệ thuật: đều dùng thể loại truyện ngắn, đều chọn ngôi kể thứ ba của người kể chuyện toàn tri, khiến cho câu chuyện trở nên khách quan. Điểm nhìn chủ yếu là nhân vật chính. Với điểm nhìn từ bên trong, cả hai tác giả rất thành công với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Chẳng hạn, từ điểm nhìn của Thành mà ta thấy được nỗi thất vọng Thành để nó tràn lên cả tâm hồn, không chống cự. Chàng có cái cảm giác bị hụt chân chết ngập trong mối buồn và thấy một nỗi thương thấm thía vô hạn cho chính mình. Còn Hộ thì cảm thấy mình khốn nạn, bất lương; có khi hắn tự nhủ phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ, nhưng rồi lại tự kiểm điểm mình hèn biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi vợ, con thì còn mong làm nên trò gì nữa…Có thể nói nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng: do Thạch Lam và Nam Cao đều là những nhà văn chân chính, có sự thấu cảm sâu sắc với giới trí thức đương thời. Thế mạnh của cả ngòi bút đều là biệt tài khai thác tâm lí con người
Tuy nhiên, giữa hai tác phẩm cũng có nét khác biệt. Về nội dung:Truyện “ Cuốn sách bị bỏ quên” của Thạch Lam khai thác người trí thức ở góc độ nghề nghiệp. Thành tâm huyết với tác phẩm nhưng bị nhà xuất bản từ chối nên sinh ra đau khổ. Từ đó nhà vă muốn phát biểu hiện thực cuộc sống vốn không màu hồng như khi ta mơ ước. Nhà văn phải biết đối diện với thực tế nhưng vẫn không được từ bỏ đi những ước mơ tốt đẹp. Còn truyện “ Đời thừa”của Thạch Lam khai thác phạm vi rộng hơn về nguyên nhân bi kịch của người trí thức. Lí tưởng văn chương bị bóp chết là bởi sự trì níu của gánh nặng cơm áo gạo tiền. Trong bi kịch văn chương của Hộ có cả sự cộng hưởng của bị kịch về lẽ sống tình thương. Qua sự giằng xé gay gắt trong nội tâm của Hộ, Nam Cao gián tiếp phát biểu quan niệm về văn chương chân chính và trách nhiệm của nhà văn. Nhà văn phải có lương tâm nghề nghiệp trong đó đề cao sự sáng tạo và phải lấy lẽ sống tình thương làm đầu. Về nghệ thuật, “Cuốn sách bị bỏ quên” của Thạch Lam có giọng điệu nhẹ nhàng khi miêu tả sự thất vọng của Thành, trong khi Nam Cao lại sử dụng một giọng văn sắc lạnh như cưa, như chém tự trong lương tâm nhà văn Hộ . Lời kể chuyện của Thạch Lam phân biệt rõ ràng giữa lời người kể và lời nhân vật. Còn trong “ Đời thừa”, lời người kể và lời nhân vật có khi giao hòa, khó phân định rạch ròi. Ví dụ: Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Chính đặc điểm này của ngôn ngữ tạo nên tính đa thanh cho tác phẩm. Nguyên nhân của sự khác biệt: do mỗi nhà văn có một phong cách nghệ thuật khác nhau.
Có thể nói, đó là những sự tương đồng và khác biệt thú vị giữa hai tác phẩm. Cùng trên một đề tài nhưng hiện thực cuộc sống, thông điệp, quan điểm và phong cách nhà văn lại mỗi người một vẻ. Đặt 2 tp trong tương quan so sánh giúp chúng ta nhìn nhận sâu hơn giá trị của từng tác phẩm, để từ đó ta thấy được sự phong phú của đề tài người trí thức trong VHVN trước năm 1945, giúp c ta thấy rõ hơn tài năng riêng của từng tác giả.