Đọc hai văn bản sau:
Văn bản 1 (Trích Hạnh phúc của một tang gia, trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng)
(Tóm tắt: Cụ cố Hồng đã ngoài tám mươi tuổi mà cứ “sống mãi”. Đám con cháu hám danh hám lợi trong nhà chỉ mong cho ông lão này sớm chết. Ước mong này thành hiện thực khi Xuân Tóc Đỏ – trong một lần “nổi giận” vì tự ái đã om sòm “tố cáo” trước mặt mọi người rằng ông Phán – cháu rể của cụ tổ (chồng cô Hoàng Hôn) là “một người chồng mọc sừng”. Việc tố cáo đó thực ra do ông Phán thuê Xuân làm với giá mười đồng để trực tiếp gây ra cái “chết thật” của cụ cố tổ.)
Ba hôm sau, ông cụ già chết thật.
[…]Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Ông Phán mọc sừng đã được cụ Hồng nói nhỏ và tai rằng sẽ chia cho con gái và rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng. Chính ông ta cũng không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô tình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế. Ông cho rằng Xuân có tài quảng cáo lắm, nói một lời là có vài nghìn bạc, nên sau khi được lời hứa quý hoá của ông bố vợ, ông trù tính ngay với Xuân một công cuộc doanh thương… “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng!” Ông Xuân chỉ nói có thế mà làm cho ông thêm được vài ba nghìn bạc thì khi ông Xuân nói đại khái: “Thưa ngài, thứ hàng này tốt nhất, buôn ở Tây phương” chắc phải có giá trị hơn nữa. Ông muốn gặp ngay Xuân để trả nốt năm đồng, trước khi buôn bán cũng phải giữ chữ tín làm đầu.
Cụ cố Hồng đã nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mấu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ:
– Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!” Cụ chắc cả mười rằng ai cũng phải ngợi khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế…
Ðiều băn khoăn của con cụ, ông Văn Minh, chỉ là mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội mà thôi. Thế là từ nay mà đi cái chúc thư kia sẽ vào thời kỳ thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Ông chỉ phiền một nỗi không biết xử trí với Xuân Tóc Ðỏ ra sao cho phải… Xuân tuy phạm tội quyến rũ một em gái ông, tố cái cái tội trạng hoạn dâm của một em gái khác nữa của ông, nhưng tình cờ đã gây ra cái chết của ông cụ già đang chết. Hai cái tội nhỏ, một cái ơn to… Làm thế nào? Ông phân vân, vò đầu rứt tóc, lúc nào cũng đăm đăm chiêu chiêu, thành thử lại thành ra hợp thời trang, vì mặt ông thật đúng cái mặt một người lúc gia đình đương là tang gia bối rối.
(…)
Xuân Tóc Ðỏ cắt đặt đâu vào đấy rồi mới xuống chỗ những người đi đưa. Tuyết đã liếc mắt đưa tình cho nó để tỏ ý cám ơn. Mọi người đã ngợi khen nó hoặc ghen ghét nó…
Ðám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy. Cả một thành phố đã nhốn nháo lên khen đám ma to, đúng với ý muốn của cụ cố Hồng. Thiên hạ chú ý đặc biệt vào những kiểu quần áo tang của tiệm may Âu Hoá như ý ông Typn và bà Văn Minh. Cụ bà sung sướng vì ông đốc Xuân đã không giận mà lại giúp đáp, phúng viếng đến thế và đám ma như kể đã là danh giá nhất tất cả.
Ðám cứ đi…
Kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu, lần lượt thay nhau mà rộn lên. Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, song le sự thật thì vẫn thì thầm với nhau chuyện về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may. Trong mấy trăm người đi đưa thì một nửa là phụ nữ, phần nhiều tân thời, bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Ðoan, vân vân… Thật là đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma.
Văn bản 2: trích Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp
Tôi ba mươi bảy tuổi, là kỹ sư, làm việc ở Viện Vật lý. Thủy, vợ tôi, là bác sĩ, làm việc ở bệnh viện sản. Chúng tôi có hai con gái, đứa mười bốn, đứa mười hai. Mẹ tôi lẫn lộn, suốt ngày chỉ ngồi một chỗ.
Ngoài những người trên, gia đình tôi còn có ông Cơ và cô con gái gàn dở của ông. Ông Cơ sáu mươi tuổi, quê Thanh Hóa. Vợ tôi gặp cha con ông khi nhà của họ bị cháy, cơ nghiệp mất sạch. Thấy cha con ông tốt bụng, đáng thương, vợ tôi sắp xếp cho họ ở với chúng tôi. Cha con ông ở dưới nhà ngang, sinh hoạt riêng rẽ nhưng mọi chế độ thì do vợ tôi chu cấp. Không có hộ khẩu, họ không có những tiêu chuẩn lương thực, thực phẩm như những người dân khác trong thành phố. Ông Cơ hiền lành, chịu khó. Thường ông đảm nhiệm việc chăm vườn tược, lợn gà và đàn chó giống. Nhà tôi nuôi chó béc-giê. Tôi cũng không ngờ việc kinh doanh chó lại thu lợi lớn. Khoản thu này trội nhất trong nhà. Cô Lài mặc dầu gàn dở nhưng lại xốc vác và nội trợ giỏi. Vợ tôi dạy cô cách thức nấu bóng, nấu nấm, nấu gà hầm. Cô bảo: “Cháu chẳng ăn thế bao giờ”. Cô không ăn thật. Cả hai vợ chồng và hai con tôi không phải lo toan công việc gia đình. Từ ăn uống, giặt giũ, tất cả giao cho hai người giúp việc. Vợ tôi cầm trịch các khoản chi tiêu. Tôi bận nhiều việc, hiện đang vùi đầu vào công trình ứng dụng điện phân. Cũng cần nói thêm: quan hệ tình cảm của vợ chồng tôi êm thấm. Thủy có học thức, sống theo lối mới. Chúng tôi suy nghĩ độc lập, nhìn nhận vấn đề xã hội tương đối giản dị. Thủy am tường các việc lo liệu kinh tế cũng như dạy dỗ con cái. Còn tôi, hình như tôi khá cổ hủ, đầy bất trắc và thô vụng.
(….)
Cha tôi về đến nhà thì sáu tiếng sau mẹ tôi mất. Ông Cơ và cô Lài nói: “Tại chúng cháu. Chúng cháu ở nhà thì bà không mất”. Vợ tôi bảo: “Nói nhảm”. Cô Lài khóc: “Bà ơi, bà đánh lừa con bà đi! Sao bà không cho con đi hầu bà?”. Ông Bổng cười: “Mày muốn đi hầu bà thì đi, tao cho đóng ván”. Khi liệm mẹ tôi, cha tôi khóc. Ông hỏi ông Bổng: “Sao người bà ấy rút nhanh thế? Người già ai cũng chết khổ như thế này à?”, ông Bổng bảo: “Anh lẩm cẩm. Hôm nào nước mình cũng có hàng nghìn người chết khổ nhục vật vã đau đớn. Mỗi lính tráng các anh, “đòm” phát là sướng”.
Tôi cho bắc rạp, bảo thợ mộc đóng quan tài. Ông Cơ cứ loay hoay bên đống ván vợ tôi cho xẻ hôm trước. Ông thợ mộc quát: “Sợ chúng ông ăn cắp gỗ à?”, ông Bổng hỏi: “Ván mấy phân?” Tôi bảo: “Bốn phân”. Ông Bổng bảo: “Mất mẹ bộ xa lông Ai lại đi đóng quan tài bằng gỗ dổi bao giờ? Bao giờ bốc mộ, cho chú bộ ván”. Cha tôi ngồi âm thầm, trông rất đau đớn. Ông Bổng bảo: “Chị Thủy luộc cho tôi con gà, nấu hộ nồi xôi”. Vợ tôi hỏi: “Mấy cân gạo hả chú?”. Ông Bổng bảo: “Mẹ mày, sao hôm nay cứ ngọt xớt thế? Ba cân”! Vợ tôi bảo tôi: “Họ hàng nhà anh kinh bỏ mẹ”.
Ông Bổng hỏi tôi: “Nhà này ai chủ trì kinh tế?”. Tôi bảo: “Vợ cháu”. Ông Bổng bảo: “Đấy là ngày thường. Tao hỏi đám ma này thì ai chủ trì kinh tế”. Tôi bảo: “Vợ cháu”. Ông Bổng bảo: “Không được con ơi, khác máu tanh lòng. Tao bảo bố mày nhé”. Tôi bảo: “Ông để con”. Ông Bổng bảo: “Đưa tao bốn nghìn, mày định làm bao nhiêu mâm?”. Tôi bảo: “Mười mâm”. Ông Bổng bảo: “Không đủ cho đô tùy rửa ruột. Mày bàn với vợ mày đi. Bốn mươi mâm”. Tôi đưa cho ông bốn nghìn rồi vào nhà. Vợ tôi bảo: “Em nghe hết rồi, em tính ba chục mâm, tám trăm đồng một mâm, ba tám hai tư. Hai tư nghìn, phụ phí sáu nghìn. Việc mua bán em lo. Cỗ giao cho cô Lài. Đừng nghe ông Bổng, lão ấy đểu lắm”. Tôi bảo: “Ông Bổng cầm bốn nghìn rồi”. Vợ tôi bảo: “Buồn anh lắm”. Tôi bảo: “Anh đòi lại nhé”. Vợ tôi bảo: “Thôi, coi như trả công. Lão ấy tốt nhưng nghèo”.
Đêm ấy, tôi thức canh quan tài mẹ tôi, ngẫm nghĩ lan man đủ điều. Cái chết sẽ đến với mỗi chúng ta, chẳng trừ ai cả. Ngoài sân, ông Bổng với mấy bác đô tùy ngồi đánh tam cúc ăn tiền. Khi nào kết tốt đen, ông Bổng lại chạy vào vái quan tài mẹ tôi: “Lạy chị, chị phù hộ cho em để em vét thật nhẵn túi chúng nó”. Cái Mi, cái Vi cũng thức với tôi. Cái Mi hỏi: “Sao chết đi qua đò cũng phải trả tiền? Sao lại cho tiền vào miệng bà?”. Cái Vi bảo: “Đấy có phải ngậm miệng ăn tiền không bố”. Tôi khóc: “Các con không hiểu đâu. Bố cũng không hiểu, đấy là mê tín”. Cái Vi bảo: “Con hiểu đấy. Đời người cần không biết bao nhiêu là tiền. Chết cũng cần”. Tôi thấy cô đơn quá. Các con tôi cũng cô đơn. Cả đám đánh bạc, cả cha tôi nữa.
* Chú thích:
Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939) sinh tại Hà Nội, trong một gia đình nghèo ở tỉnh Hưng Yên.
– Sau khi tốt nghiệp tiểu học, Vũ Trọng Phụng đi làm kiếm sống nhưng chẳng được bao lâu thì mất việc. Từ đó, ông sống chật vật bằng nghề viết báo, viết văn chuyên nghiệp.
– Khoảng từ 1937 – 1938, ông mặc bệnh lao nhưng lại không có điều kiện để chữa chạy.
– Đến năm 1939, Vũ Trọng Phụng mất tại Hà Nội.
– Ông được mệnh danh là “ông vua phóng sự đất Bắc.
– Hạnh phúc của một tang gia thuộc chương XV của tiểu thuyết Số đỏ. Tiểu thuyết “Số đỏ” được đăng ở “Hà Nội báo” từ số 40 ngày 7 tháng 10 năm 1969 và in thành sách lần đầu năm 1938.
Nguyễn Huy Thiêp (1950 – 2021), là nhà văn đương đại Việt Nam trong địa hạt kịch, truyện ngắn và tiểu thuyết với những góc nhìn mới, táo bạo. Ông xuất hiện khá muộn trên văn đàn (1986) nhưng được coi là người đạt đỉnh cao nghệ thuật của truyện ngắn.
Truyện ngắn Tướng về hưu lần đầu được in trên Báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1987 là một trong những tác phẩm tiêu biểu khẳng định nghệ thuật đỉnh cao về truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và cũng đã được chuyển thể kịch bản dựng thành phim
Anh/ chị hãy viết bài văn (khoảng 600 chữ) so sánh hai văn bản trên để làm nổi bật về cách nhìn hiện thực và con người của nhà văn Vũ Trọng Phụng và Nguyễn Huy Thiệp.
HƯỚNG DẪN LÀM DÀI BÀI
* Mở bài: Giới thiệu hai tác giả, hai tác phẩm, hai đoạn trích
– Giới thiệu về điểm gặp gỡ và khác nhau trong cách tiếp cận hiện thực và xây dựng nhân vật qua hai đoạn trích của hai tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng và Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp
* Thân bài
– Luận điểm 1: Cảm nhận, phân tích hai đoạn trích
Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
– Nghệ thuật trào phúng thể hiện ngay trong nhan đề:
+ “Tang gia”: nhà có đám, đáng ra với hoàn cảnh đó, không khí phải tràn ngập nhiều buồn tiếc
+ “Hạnh phúc”: Cảm xúc khi gặp chuyện nhiều niềm vui, đây là cảm xúc đối lập hẳn với hoàn cảnh “tang gia”
=> nhan đề chứa đựng mâu thuẫn trào phúng hàm chứa tiếng cười chua chát, kích thích trí tò mò của người đọc.
– Thể hiện trong niềm vui của những người trong gia đình và ngoài gia đình:
+ Nhà chuyện buồn nhưng mỗi nhân vật trong gia đình đều không giấu nổi niềm vui bởi mình sẽ đạt được mục đích khác nhau
+ Những người ngoài gia đình: Mừng vui vì được khoe mẽ, chim chuột, được xem đám ma to…
– Mâu thuẫn trào phúng xuyên suốt cảnh đám ma: một đám ma rất to, rất đông, được tiến hành rất trọng thể, đúng là một đám ma gương mẫu. Nhưng kỳ thực lại giống một đám hội, đám rước.
– Nhân vật trào phúng
+ Cố Hồng: vui vì được diễn trò già yếu trước mọi người, mơ màng nghĩ mình được mặc áo xô gai, lụ khụ ho khạc mếu máo =>con người háo danh bề ngoài, không hề tiếc thương gì trước cái chết của chính người sinh ra mình
+ Ông Văn Minh: thích thú vì cái chúc thư kia đã đi vào thời kì thực hành chứ không còn trên lý thuyết viễn vông nữa.
+Bà Văn Minh: mừng rỡ vì được lăng xê những mốt y phục táo tạo nhất.
+ Cô Tuyết: Được dịp mặc y phục “ngây thơ” để chứng tỏ mình hãy còn trinh tiết, cô cũng buồn nhưng là “buồn lãng mạn” vì không thấy người tình của mình
+Cậu Tú Tân: sướng điên người lên vì được dịp sử dụng cái máy ảnh đã lâu không có dịp dùng đến
+ Ông Phán: Sung sướng vì không ngờ rằng cái sừng trên đầu mình lại có giá trị.
+ Xuân tóc đỏ: Hạnh phúc đặc biệt vì nhờ hắn mà cụ Tổ chết, danh giá uy tín lại càng to hơn
– Hàng phố: đám ma đi đến đâu huyên náo đến đấy, cả phố nhốn nháo khoe đám ma to, thiên hạ chỉ chu ý vào những kiểu quần áo tang…
=> Bức tranh trào phúng chân thực mang đậm tính hài hước, nhân vật trào phúng thể hiện rõ nét, ai cũng tìm thấy niềm vui trong đám tang đáng lẽ ra nên buồn thương
– Cảnh tượng trào phúng
– Cảnh đưa đám:
+ Chậm chạp và nhốn nháo
+ Các loại kèn ta, Tây , Tàu lố lăng
+ Người đi đám nói chuyện bàn tán
+ Điệp khúc “Đám cứ đi”
– Cảnh hạ huyệt:
+ Cậu Tú bắt mọi người tạo dáng chụp ảnh
+ Cụ cố Hồng: tỏ ra chí hiếu nhưng lại lộ sự giả dối
+ Phán mọc sừng khóc oặt người đi nhưng lại giúi vào tay Xuân tờ 5 đồng rồi lại khóc oặt người đi
=> Càng thể hiện rõ sự “trào phúng” của đoạn trích
=> Đám ma hoành tráng của đại gia đình đại tư sản nhưng lại phô bày được bản chất đại bất hiếu của những con người tự xưng trí thức.
Đoạn trích Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp
– Phần đông thế giới nhân vật trong Tướng về hưu đều là những con người cô đơn. Mặc dù họ sống trong ngôi biệt thự khá sang trọng với “tam đại đồng đường”, đầy đủ về đời sống vật chất nhưng mỗi con người là một thế giới riêng, không hòa nhập được vào cuộc sống chung của đại gia đình.
– Tướng Thuấn là không mang biểu tượng của một thời oanh liệt, của những năm tháng lặn lội ở chiến trường. Nguyễn Huy Thiệp không miêu tả ông trở về với những huân huy chương, ông trở về có phần xa lạ đối với mọi người trong nhà. Chỉ trong ba tháng từ ngày về hưu, trở nên lặng thinh, lạc lõng, có điều gì đó nghẹn khuất trong lòng tướng Thuấn và trở thành nỗi nhớ, rồi sau đó là nỗi nhục. Sự cô đơn của tướng Thuấn chưa hẳn là nỗi buồn nhớ một cái gì đã thuộc về quá khứ, ông trở thành cô đơn trong chính ngôi nhà mình.
– Thế giới con người trong bi kịch của Nguyễn Huy Thiệp còn là những toan tính nhỏ nhen ích kỷ của nếp sống thực dụng. Một lối sống phi đạo đức, thiếu nhân tính đã len vào tâm hồn của một bộ phận người mang danh của trí thức, của thời đại mới. Điều này thể hiện chân thực qua cách cắt đặt mọi thứ trong đám tang mẹ chồng của Thủy.
Luận điểm 2: So sánh
– Giống: Cả hai đoạn trích đều viết về đề tài về sự tha hóa, biến chất của tầng lớp trí thức trong bối cảnh xã hội bon chen, xô bồ trong guồng quay của đồng tiền và danh lợi, địa vị, tình cảnh bê bối, trắng trợn, giả tạo của xã hội, nơi đạo đức con người chạm đến đáy sâu của sự đê tiện và ô uế, nơi giá trị nhân phẩm con người bị chà đạp, bị đồng tiền và những giá trị hào nhoáng vô bổ “đè đầu cưỡi cổ”
– Khác:
+ Qua đôi mắt của Vũ Trọng Phụng, con người mang danh “thượng lưu”, “văn minh” trông thật ô uế, thối tha từ tận sâu trong thâm tâm, trong bản chất, hoàn toàn đánh mất danh dự và nhân phẩm con người, đua chen nhau trên con đường trở thành kẻ dát vàng hào nhoáng của thời đại mới, Âu hóa, hiện đại hóa.
+ Con người của “Tướng về hưu” lại “chết” trong cái bể ngập ngụa đen tối của tiền tài. Sự thay đổi quá nhanh của hình thái xã hội – từ cơ chế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường khiến con người cũng điên cuồng lao vào vòng xoáy “giết người” của đồng tiền.
Luận điểm 3: Lí giải sự giống và khác nhau
– Bối cảnh xã hội mà tác phẩm ra đời, “Số đỏ” được thai nghén trong thời gian xã hội Việt Nam đang du nhập văn hoá từ phương Tây, trong thời kỳ Pháp thuộc, tầng lớp trí thức thời bấy giờ bon chen chạy theo phong trào tân thời, “văn minh”, “Âu hóa”. Còn “Tướng về hưu” được Nguyễn Huy Thiệp cho ra đời trong bối cảnh chiến tranh đã lùi về quá khứ, xã hội Việt Nam đang thay đổi cơ chế từ tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường, con người trong một xã hội bất ổn như thế cũng trở nên bất an, bất an về tinh thần, phẩm giá, văn hoá và tư tưởng.
– Phong cách cá nhân và đặc trưng thi pháp của từng thời đại văn học cũng quy định nét riêng của tác phẩm.
* Kết bài
+ Khái quát lại vấn đề
+ Nêu lên suy nghĩ của bản thân về vấn đề
BÀI VĂN THAM KHẢO
Ví văn chương chân chính như một vò Mao Đài thượng hạng khiến người ta nguyện làm kẻ lãng du say sưa cả đời không nỡ tỉnh. Nếu rượu làm ta quyến luyến bởi hương vị cay nồng khó quên thì văn chương đi vào lòng người bởi những tinh túy chắt lọc mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm. Tùy vào từng thời điểm, từng bối cảnh xã hội và thẩm mỹ cá nhân của từng nghệ sĩ mà nội dung của các tác phẩm sẽ có những gặp gỡ tương đồng và những khác biệt mang dấu ấn riêng, làm nên sức hút bất diệt của văn chương ở mọi thời đại. Ta sẽ tìm thấy điểm sáng của điều này một cách xác đáng thông qua các thiên truyện ngắn, ở đây ta sẽ luận bàn cụ thể đến “Số đỏ” – Vũ Trọng Phụng và “Tướng về hưu” – Nguyễn Huy Thiệp.
“Số đỏ” là tác phẩm sáng giá nhất trong đời văn của “ông vua phóng sự đất Bắc” Vũ Trọng Phụng, đăng ở Hà Nội báo từ số 40 ngày 7 tháng 10 năm 1936 và được in thành sách lần đầu vào năm 1938. “Số đỏ” thông qua lăng kính góc nhìn từ những nhân vật thuộc tầng lớp trí thức, giàu có và quyền lực đã dè bỉu, nhạo báng một bối cảnh xã hội hỗn loạn, đê tiện đến tột cùng trong giai đoạn những kẻ đội lốt “thượng lưu” đua nhau chạy theo trào lưu “văn minh hóa”, “Âu hóa” xã hội một cách lố lăng, sáo rỗng, hào nhoáng bên ngoài nhưng bên trong thối nát đến tận xương tủy. Nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng đã chạm đến đỉnh cao khi viết “Số đỏ”, đặc biệt là trong trích đoạn “Hạnh phúc của một tang gia”. Ở đây, ta bắt gặp sức phê phán mãnh liệt của ngòi bút Vũ Trọng Phụng thông qua cái chết, đám tang của cụ cố tổ. Nhà văn đã dựng lên một màn hài kịch đặc biệt, khắc họa sâu sắc những chân dung biếm họa đem đến cho người đọc những chuỗi cười khinh bỉ trước xã hội nhố nhăng, kệch cỡm đương thời.
Nghệ thuật trào phúng được thể hiện ngay từ cách đặt nhan đề. Tên đầy đủ của đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia, văn minh nữa cũng nói vào một đám ma gương mẫu”. Nhan đề giật gân có tính hài hước rõ rệt bởi ngay trong nhan đề đã có những mâu thuẫn. Sự việc được đưa ra là sự việc buồn, đau đớn nhưng nó lại được coi là hạnh phúc, nghĩa là vui và sung sướng. Ngôn từ của nhan đề cũng hết sức hỗn độn, Hán, Nôm pha trộn tùy tiện. Chuyện đưa ra là chuyện hệ trọng mà được coi như là chuyện đùa, chuyện vui. Có thể nói ngay từ nhan đề nhà văn đã gợi cho người đọc nhiều suy ngẫm chính là sự hài hước châm biếm trong nghệ thuật trào phúng của nhà văn.
Vũ Trọng Phụng đã miêu tả đám tang ồn ào, tất bật nhưng không giống với một đám tang thông thường. Không khí không phải đau thương tang tóc như những đám ma bình thường khác mà là không khí hạnh phúc đầy ắp tràn ra không nén nổi bởi cái chết ấy là niềm mong ngóng chờ đợi bao lâu rồi của cả gia đình người chết. Niềm hạnh phúc hiển hiện trong từng hành động lộ ra trên từng khuôn mặt khiến ta phải thốt lên rằng: “Cái chết kia làm cho người sung sướng lắm! Bọn con cháu vô tâm sung sướng thỏa thích”. Tác giả còn khái quát “Tang gia ai cũng vui vẻ cả? Tất cả tưng bừng như ngày hội.”, “Người ta tưng bừng đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, tất cả sôi nổi khẩn trương chuẩn bị cho đám tang”… Bao nhiêu sự chuẩn bị và cuối cùng đám tang cũng được tiến hành. Nó diễn ra với đủ các kiểu cách đủ các nghi lễ, hàng trăm người đi đưa, hàng trăm người chụp ảnh lia lịa như ở hội chợ. Có thể nói đây là đám ma tổ chức rất linh đình, rất to, rất trọng thể, “một đám ma gương mẫu” khiến cho thành phố nhốn nháo. Âm thanh cũng đủ loại trộn với nhau: kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu…. Lẫn với nó là tiếng mỉa mai, bình phẩm của người đưa đám: khen cô này đẹp, than cảnh “Vợ béo thế, chồng gầy thế thì mọc sừng mất”. Còn tang phục thì là những bộ mốt nhất, đẹp nhất của hiệu may Âu hóa được lăng xê kịp thời nhờ cái chết của cụ cố tổ, là bộ “Ngây thơ” giúp cô Tuyết khẳng định với người đời rằng mình không hư hỏng, thậm chí là “chưa đánh mất cả chữ trinh”.
Quả là một đám ma danh giá, sang trọng, một đám ma gương mẫu, một sân khấu hài. Ở đó ta thấy một cảnh bát nháo hỗn độn, pha tạp từ âm thanh đến màu sắc. Tiếng khóc là âm thanh đặc trưng của đám tang nhưng nó cũng hết sức pha tạp và hỗn độn. Có tiếng khóc “hứt hứt” của Ông phán mọc sừng, có tiếng “sụt sịt” giả vờ của cụ cố Hồng, có tiếng khóc của cụ cố bà…. Cảnh đám tang là cảnh vĩnh biệt một con người nhưng nó lại là chuyện đùa của một gia đình, và đây là mâu thuẫn xuyên suốt toàn bộ đoạn trích.
Vũ Trọng Phụng cũng hết sức thành công trong nghệ thuật dùng từ, tác giả không nói đám tang mà lại nói “đám cứ đi”. Cụm từ đó cũng được lặp lại nhiều lần, tính hài hước được ngầm ẩn trong chính ngay ba cái từ cộc lốc đó. Ba từ đó gợi nhiều liên tưởng, suy ngẫm đoán định, nhà văn như giúp người đọc đặt ra một câu hỏi vậy đó là đám gì đây? Lời văn thản nhiên hóm hỉnh chua cay, những lời nhận xét bình luận của tác giả thì vô cùng chua chát. Chuyện sinh ly tử biệt trang trọng lại được diễn tả bằng những từ ngữ đầy vui đùa, nôm na, vui đùa cả lũ người sống và kẻ đã chết. Với khả năng lựa chọn và dùng từ đặc sắc, tác giả đặc biệt thành công trong việc vẽ ra bức tranh đám tang cho người đọc cùng dự.
Nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng còn thành công trong việc xây dựng những bức chân dung biếm họa. Những người trong gia đình cụ cố Hồng đều vui mừng phấn khởi trong những niềm vui có những lý do và sắc thái khác nhau, vô cùng phong phú và đa dạng. Trong khi con cháu đang nôn nao, sôi sục về tang gia thì cụ cố Hồng nằm trên gác hút thuốc phiện mơ màng hình dung đến lúc được mặc đồ xô gai lụ khụ chống gậy nghe người ta trầm trồ “Con trai nhớn đã già đến thế kia à”. Văn Minh chồng thì vui mừng nghĩ tới lúc hưởng gia tài thành hiện thực. Văn Minh vợ – cô Tuyết thì đang hồi hộp để được lăng xê những bộ trang phục mới. Khi đám tang diễn ra cô Tuyết mặc bộ cánh “Ngây thơ” lượn lờ mời trầu, mời thuốc với vẻ mặt mơ màng, lãng mạn để “ban cho những ai có tang được hưởng một chút ít hạnh phúc ở đời”. Tú Tân sung sướng đến điên người vì được dùng đến những cái máy ảnh mà lâu chưa có dịp được dùng đến. Phán mọc sừng là người sung sướng nhất, ông không ngờ cái sừng từng là nỗi đau, nỗi nhục của mình mà lại đáng giá vài ngàn đồng.
Như vậy từ cụ bà đến con gái, con trai, cháu nội cháu ngoại… không một ai thương tiếc, không một ai nghĩ suy cho người vừa nằm xuống, vừa rời xa gia đình mãi mãi. Tất cả đều vui vẻ, hả hê, sung sướng, họ tổ chức đám ma vì tiền tài danh vọng, vì những mục đích xấu xa, những mối tình vụng trộm, lén lút… một sự giả dối đáng sợ.
Không chỉ những người trong gia đình cụ cố mà cái chết của cụ cũng đem đến hạnh phúc cho bao nhiêu người khác nữa từ Min Đơ, Min Toa, đến bạn bè thân hữu… Họ được dịp để khoe những chiến công lớn lao: trên ngực treo đầy huân chương, huy chương, khoe các kiểu râu ria trên mép,… Đây chính là sự ganh đua nhau theo lối Tây học tráo trở của những lũ trưởng giả. Họ đến đây là để “chim nhau”, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, hẹn hò nhau. Có thể nói hình ảnh của họ chính là hình ảnh của một xã hội giả dối, lừa lọc đến tột cùng.
Nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng đạt tới bậc thầy và vô cùng điêu luyện. Tác giả không chỉ tả bề ngoài mà còn làm bản chất của con người trong xã hội hiện lên rõ mồn một. Đám tang cụ cố tổ là một tấn bi kịch, mỗi nhân vật được xem như là một vai hề vừa lố lăng vừa tàn nhẫn. Tất cả tạo nên tiếng cười phê phán mạnh mẽ với xã hội đương thời. Qua đoạn trích tác giả còn muốn gửi tới người đọc một thông điệp: “Phải loại bỏ tình trạng này, loại bỏ những xã hội giả dối, luân lý đạo đức con người xuống cấp”.
Cùng viết về tình cảnh bê bối, trắng trợn, giả tạo của xã hội, nơi đạo đức con người chạm đến đáy sâu của sự đê tiện và ô uế, nơi giá trị nhân phẩm con người bị chà đạp, bị đồng tiền và những giá trị hào nhoáng vô bổ “đè đầu cưỡi cổ”. Nguyễn Huy Thiệp – nhà văn trưởng thành trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và đổi mới đất nước, đổi mới đời sống văn học – ngoài việc nhìn thấy những kệch cỡm lố lăng của xã hội, còn tìm thấy những điểm sáng mà Vũ Trọng Phụng cách đó 50 năm chưa tìm thấy được. “Tướng về hưu” lần đầu được in trên tuần báo Văn Nghệ số 20/6/1987 của Hội Nhà văn Việt Nam. Nó lập tức trở thành một hiện tượng văn học và được nhà xuất bản Trẻ tuyển chọn in trong tập truyện ngắn với tựa đề “Tướng về hưu”. Nhà xuất bản Văn hoá, năm 1989 cũng cho ra một tập gồm 11 truyện lấy tên là “Những ngọn gió Hua Tát”… Tuy mới xuất hiện nhưng “Tướng về hưu” được xem như một truyện ngắn đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp.
Vương Trí Nhàn có nhận xét về “Tướng về hưu”: “Nhắc tới anh, người ta nhớ Tướng về hưu gây xôn xao một dạo, bởi cách viết rạch ròi, trần trụi… Bằng một lối kể thâm trầm của một kẻ vừa trải đời, vừa chán đời và không còn những hy vọng dễ dãi vào đời, trong Tướng về hưu, tác giả vẽ ra một khung cảnh ở đó, nếp sống thực dụng lan tràn, trở thành một thói quen; con người lì lợm lâu ngày đến mức mất hết cảm giác về sự lì lợm của chính mình; cái tốt bé nhỏ như một cái gì trớ trêu rơi rớt lại không được việc gì; lương tri vẫn còn trong mỗi người nhưng nó chỉ đủ sức làm cho người ta nghẹn ngào khi phải đối mặt với những cảnh tha hóa, bần cùng…”. Bi kịch cá nhân con người bắt đầu khi thiếu tướng Nguyễn Thuấn bình lặng trở lại cuộc sống đời thường ở cái tuổi “cổ lai hy” khi “việc lớn trong đời đã làm xong rồi”. Nhưng tướng Thuấn không được “thảnh thơi thơ túi rượu bầu” của Nguyễn Công Trứ mà lại nặng trĩu mối u hoài khi cảm thấy mình như lạc loài trong ngôi nhà của mình. Ông không mang về ánh hào quang của người lính suốt cả đời chinh chiến, không dằn vặt, hoài niệm về chiến tranh như Kiên trong “Nỗi buồn chiến tranh” – Bảo Ninh hay nỗi đau dằn xé của Lực trong “Cỏ Lau” của Nguyễn Minh Châu khi ngày trở về thì người vợ thân yêu đã có chồng khác. Ông trở về sống bên người những người thân của mình. Thế nhưng tại trong ngôi nhà của mình, ông cảm thấy lạc loài, không hòa nhập được.
Phần đông thế giới nhân vật trong Tướng về hưu đều là những con người cô đơn. Mặc dù họ sống trong ngôi biệt thự khá sang trọng với “tam đại đồng đường”, đầy đủ về đời sống vật chất nhưng mỗi con người là một thế giới riêng, không hòa nhập được vào cuộc sống chung của đại gia đình. Một bà vợ hơn ông sáu tuổi đã bị lú lẫn, một anh con trai là kỹ sư nhưng nhu nhược, cô con dâu bác sĩ phụ sản – con người của chủ nghĩa thực dụng, cùng hai đứa cháu nội lúc nào cũng bận bịu với học ngoại ngữ, học thanh nhạc. Bi kịch cá nhân con người trong “Tướng về hưu” – Nguyễn Huy Thiệp chủ yếu là bi kịch con người lý tưởng bình đẳng và sự tha hóa trong nếp sống thực dụng của nền kinh tế thị trường.
Tướng Thuấn là không mang biểu tượng của một thời oanh liệt, của những năm tháng lặn lội ở chiến trường. Nguyễn Huy Thiệp không miêu tả ông trở về với những huân huy chương, ông trở về có phần xa lạ đối với mọi người trong nhà. Sự trở về của ông có phần làm xáo trộn nếp sống của gia đình mà cô con dâu ông điều hành và quản lý. Cái nề nếp vốn đã ổn định, trật tự từ lâu theo lối sống thực dụng bỗng bị khuấy đảo. Trước tiên là khách khứa đến thăm nhiều. Nhưng đối với cô con dâu thì điều đó là “Không thể thế được” – lời chào đón của người con dâu khi bố chồng trở về trên chính ngôi nhà của ông. Và cũng chính cô đã nhận ra ngay mặt trái của sự thăm viếng là nhờ vả, là lợi dụng vào thanh danh của viên tướng: “Đừng mừng… họ chỉ nhờ vả. Cha ạ, cha đừng làm gì quá sức”. Một cái nhìn tinh tế của đôi mắt thục dụng trong hiện thực cuộc sống mà người tướng già không kịp nhận ra. Có thể ở nơi chiến trường ông đã đi qua những cuộc chiến tranh, con người và con người gắn kết nhau trong tình đồng đội, ít có vụ lợi cá nhân. Nhưng khổ nỗi nơi chiến địa, người ta hy sinh, san sẻ cho nhau từ vật chất lẫn tinh thần, còn cuộc sống xã hội thì khác hẳn. Chén cơm manh áo đời thường, sự ti tiện ích kỷ cá nhân, con người giành giật nhau trong đời sống kinh tế. Ông trở về trong ngỡ ngàng của đứa con trai (dù rằng đã biết trước), trong sự xa lạ của cô con dâu trí thức, nhưng rất thực dụng và cả hai đứa cháu nội gái. Về hưu không theo kịp với nhịp sống hiện đại, ông bị lạc lõng trước cuộc sống bộn bề, phức tạp, nhố nhăng trong một xã hội đang chuyển mình từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Câu nói “Sao tôi cứ như lạc loài” dường như chứng minh cho nhận định trên. Ánh hào quang duy nhất theo ông là “Cả ở trong họ, trong làng, tên tuổi của cha tôi cũng được mọi người ngưỡng vọng”, hay “Cha là tướng. Về hưu cha vẫn là tướng. Cha chỉ huy. Cha mà làm lính thì sẽ loạn cờ”. Thế nhưng chính ông cũng thốt lên khi trả lời với ông Cơ (người giúp việc nhà): “Tôi có tiếng gì mà mang?” Ông trả lời trong tiếng thở dài nghe có phần ngao ngán. Danh tiếng của một con người, danh tiếng của viên tư lệnh, cả quá khứ vàng son ấy, và ngay cả địa vị người bố trong gia đình vốn có truyền thống Nho học cũng nhạt nhòa trong quyền năng của đồng tiền mà cô con dâu thao túng.
Một điều đau buồn của con người trong chiến tranh, tướng Thuấn sinh ra trong một gia đình Nho giáo, nhưng bất hạnh thay, khi ông chào đời được ít ngày thì mẹ ông mất. Sống với bà mẹ kế khắc nghiệt với nhiều cay đắng. Năm mười hai tuổi, ông trốn nhà ra đi rồi vào bộ đội, ít khi về nhà. Ngay cả khi lấy vợ trong cuộc hôn nhân không do tình yêu nhưng vẫn đầy trách nhiệm, rồi sinh con, rồi tiếp tục biền biệt trong súng đạn chiến tranh. Hạnh phúc riêng tư nhỏ bé trong những lần thỉnh thoảng ghé về nhà, hay những lá thư đều rất ngắn ngủi, nhưng dưới dòng chữ ấy “ẩn chứa nhiều tình thương cùng âu lo”. Việc lớn đã xong trở về vun quén hạnh phúc gia đình trong những ngày còn lại bên cạnh những người thân yêu. Song chính ngay tại ngôi nhà của ông đã xây dựng tám năm trước khi về hưu, ông đăm chiêu khi muốn ở một phòng dưới nhà ngang như người vợ lú lẫn của ông nhưng không được. Ông cũng đã bứt rứt khi cô con dâu sắp xếp cho người mẹ chồng ăn riêng, ở riêng “tại mẹ lẫn”. Người phụ nữ mà có lẽ suốt cả đời tần tảo lầm lũi chăm lo gia đình mà suốt đời chỉ là cái bóng nhạt nhẽo. Là vị tướng đầy quyền lực, chỉ huy ngoài mặt trận cả hàng ngàn, vạn người, nhưng chỉ trong gia đình bé nhỏ ấy với mấy người thì ông lại trở nên thụ động, lệ thuộc.
Chỉ trong ba tháng từ ngày về hưu, trở nên lặng thinh, lạc lõng, có điều gì đó nghẹn khuất trong lòng tướng Thuấn và trở thành nỗi nhớ, rồi sau đó là nỗi nhục. Sự cô đơn của tướng Thuấn chưa hẳn là nỗi buồn nhớ một cái gì đã thuộc về quá khứ, ông trở thành cô đơn trong chính ngôi nhà mình. Viên tướng từng hỏi con trai khi mới về hưu: “Nghỉ rồi, cha làm gì?”. Thuần khuyên bố viết hồi ký nhưng ông từ chối, còn Thuỷ gợi ý: “Cha nuôi vẹt xem” thì bị ông phản ứng ngay: “Kiếm tiền à?”. Hình như đồng tiền không nằm trong suy nghĩ của ông. Nhưng oái oăm thay, đồng tiền đã là lẽ sống của xã hội. Chính vì thế ông không thể chấp nhận việc cô con dâu, một bác sĩ sản khoa hàng ngày đem các nhau thai nhi bỏ đi, cho vào phích đá đem về nấu lên cho chó, cho lợn ăn chóng lớn để bán lấy tiền. Ông đã nhìn thấy những mẫu thai nhi bé xíu, có cả những ngón tay nhỏ hồng hồng trong nồi cám. Đau đớn quá, ông đã bật khóc. Nước mắt của vị tướng về hưu, người đã từng chôn cất ba nghìn người lại bật khóc vì những sinh linh, những hình hài chưa kịp hoàn chỉnh của con người đã trở thành thực phẩm cho loài chó, lợn, và chính loài chó lợn ấy lại nuôi sống con người mang danh phận trí thức. Đúng là bi kịch. Ông đã thốt lên: “Khốn nạn! Tao không cần sự giàu có này”. Sự lạnh lùng của nền kinh tế thị trường với thế lực đồng tiền thành tiêu chí đã tạo cho Thủy lạnh lùng đến kinh tởm. Cô bảo ông Cơ: “Sao không cho vào máy xát?”. Nguyễn Huy Thiệp đã sử dụng ngôn ngữ đặc quánh để diễn tả thái độ, hành động, suy nghĩ của con người, của sự đen tối, của giá trị đồng tiền. Chả trách khi người vợ ông chết, ông Bổng cạy miệng bà vợ ông cho vào chín đồng tiền chinh Khải Định “để đi đò” làm đứa cháu gái mười hai tuổi ngây ngô nói lên những lời đầy triết lý đau xót: “Đấy có phải ngậm miệng ăn tiền không bố?… Con hiểu đấy. Đời người cần không biết bao nhiêu là tiền. Chết cũng cần”.
Thế giới con người trong bi kịch của Nguyễn Huy Thiệp còn là những toan tính nhỏ nhen ích kỷ của nếp sống thực dụng. Một lối sống phi đạo đức, thiếu nhân tính đã len vào tâm hồn của một bộ phận người mang danh của trí thức, của thời đại mới. Ngay cả vấn đề tình yêu, hôn nhân. tướng Thuần đã hụt hẫng biết bao trong ngày cưới của Kim Chi với đứa cháu lưu manh của ông. Cái diễn văn chuẩn bị công phu trong ngày lễ trọng đại của đời người hóa nên thừa thãi, lạc lõng giữa cái bát nháo, ô hợp rất thản nhiên, rất đời của bọn du thủ du thực. Những bài hát Tây – ta lộn xộn như một mớ hổ lốn. Cô cháu dâu là một cô giáo mầm non, con gái ông vụ phó lại sinh sau đám cưới mười ngày. Cô con dâu là bác sĩ sản khoa đã nhận định “Chuyện ấy là chuyện thường. Bây giờ làm gì còn có trinh nữ. Con làm ở bệnh viện sản con biết”. “Chữ trinh đáng giá nghìn vàng” của cụ Tố Như xem ra không có giá trị với thì hiện tại. Con người sống bằng bản năng, bằng sự thỏa mãn dục vọng, xem thường giá trị đạo lý.
Thiên tiểu thuyết đã cho ta thấy được khoảng cách giữa đời sống hòa bình hậu chiến và sự văn minh, phát triển thực sự của một quốc gia. Bi kịch lạc loài của vị tướng Thuấn cùng niềm cô đơn của nhân vật Thuần trong một xã hội chạy theo lối sống vật chất, thực dụng mà bấy giờ người người cho là tiến bộ đã khiến ta nhận ra một sự thật. Thành quả của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mấy chục năm qua chỉ mới là tiền đề cho sự phát triển chứ không phải là điều kiện chín muồi để cải tạo xã hội cũ và xây dựng cuộc sống mới. Để hoàn thành được mộng lớn của dân tộc, ta còn phải bắt tay vào giải quyết những vấn đề khó khăn và phức tạp hơn rất nhiều, từ việc vứt bỏ cái lạc hậu trong quá khứ, loại trừ mầm mống của sự tha hóa mới nảy sinh đến đưa ra những giải pháp thiết thực để đảm bảo an sinh xã hội và giúp đất nước đi lên một cách bền vững. Đó là một hành trình rất dài và sẽ luôn tiếp diễn, nó đòi hỏi sự chung tay góp sức không những của những thế hệ cha ông xưa mà còn là của lớp người trẻ ngày nay và mãi sau này nữa.
Cùng chọn đề tài về sự tha hóa, biến chất của tầng lớp trí thức trong bối cảnh xã hội bon chen, xô bồ trong guồng quay của đồng tiền và danh lợi, địa vị, ta có thể nhận thấy những gặp gỡ và khác biệt trong cả nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Qua đôi mắt của Vũ Trọng Phụng, con người mang danh “thượng lưu”, “văn minh” trông thật ô uế, thối tha từ tận sâu trong thâm tâm, trong bản chất, hoàn toàn đánh mất danh dự và nhân phẩm con người, đua chen nhau trên con đường trở thành kẻ dát vàng hào nhoáng của thời đại mới, Âu hóa, hiện đại hóa. Sự biến tướng của phong trào văn minh khiến loài người dường như “tiến hóa ngược”, quay về với phần “con”, phần “loài” mà đánh mất phần “người” đã gây dựng hàng ngàn năm, trở về với những đam mê thể xác, thỏa mãn tinh thần bằng những trò đê hèn ti tiện, bỏ quên đạo đức và phẩm giá thanh cao lẽ ra nên có ở một lớp người giàu có, bề thế. Trong khi đó, con người của “Tướng về hưu” lại “chết” trong cái bể ngập ngụa đen tối của tiền tài. Sự thay đổi quá nhanh của hình thái xã hội – từ cơ chế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường khiến con người cũng điên cuồng lao vào vòng xoáy “giết người” của đồng tiền. Con người sẵn sàng làm cả những điều ghê tởm nhất, bất nhân nhất như nấu xác thai nhi bị bỏ rơi để cho chó, cho lợn ăn. Con người ở “Tướng về hưu” đem xác thịt của đồng loại để nuôi sống loài súc sinh để rồi lại lấy xác thịt của loài súc sinh ấy để nuôi sống con người. Phẩm giá con người lúc này đặt vào một vòng tròn ngang hàng với loài chó lợn, thật đê hèn xiết bao! Chưa dừng lại ở đó, sự khác biệt còn thể hiện rõ rệt ở phương diện nghệ thuật. Về giọng văn, Vũ Trọng Phụng ở “Số đỏ” vẫn giữ giọng điệu mỉa mai lạnh lùng thường thấy. Dường như đây đã trở thành một nét phong cách mang đậm dấu ấn cá nhân của “ông vua phóng sự đất Bắc”, với một chất giọng trào phúng vô cùng nhạo báng, cợt nhả. Mảnh hiện thực đi qua lăng kính và nghệ thuật sử dụng ngôn từ của Vũ Trọng Phụng đã trở nên trần trụi, lố lăng và kệch cỡm đến tột cùng. Trong khi đó, ở Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy được một giọng văn nhẹ nhàng, sâu cay hơn, dường như chất chứa trong câu chuyện đó là một bề sâu trải nghiệm, một thái độ suy tư, chiêm nghiệm.
Để hình thành được sự khác biệt đó, cần hội tụ những yếu tố thuộc về các phương diện khác nhau. Đầu tiên là bối cảnh xã hội mà tác phẩm ra đời, “Số đỏ” được thai nghén trong thời gian xã hội Việt Nam đang du nhập văn hoá từ phương Tây, trong thời kỳ Pháp thuộc, tầng lớp trí thức thời bấy giờ bon chen chạy theo phong trào tân thời, “văn minh”, “Âu hóa”. Còn “Tướng về hưu” được Nguyễn Huy Thiệp cho ra đời trong bối cảnh chiến tranh đã lùi về quá khứ, xã hội Việt Nam đang thay đổi cơ chế từ tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường, con người trong một xã hội bất ổn như thế cũng trở nên bất an, bất an về tinh thần, phẩm giá, văn hoá và tư tưởng. Phong cách cá nhân và đặc trưng thi pháp của từng thời đại văn học cũng quy định nét riêng của tác phẩm.
Để làm được điều này, nhà văn phải chuẩn bị cho mình một tấm lòng quảng đại, bề dày trải nghiệm, bút pháp mạnh mẽ để lột tả được hiện thực cuộc đời sâu sắc, tròn vẹn. Trong khi đó, bạn đọc cũng cần chuẩn bị một tầm đón đợi đủ chiều sâu để sẵn sàng tiếp nhận, tri âm và đồng sáng tạo với tác giả. Để từ đó nhận diện được dấu ấn cá nhân và những suy tư mà tác giả gửi gắm.
Nếu đã là một vò Mao Đài thì phải mang hương vị nồng đượm đắm say, quyến luyến lòng người, đã là một tác phẩm văn chương chân chính phải có cho mình nét riêng, độc đáo, thẩm thấu được trái tim người đọc, khẳng định sức sống mạnh mẽ dẫu qua bao nhiêu năm tháng băng hoại của thời gian.