Đề bài: Về thơ, Chế Lan Viên cho rằng: “Thơ cần có hình cho người ta thấy, có ý cho người ta nghĩ và cần có tình để rung động trái tim.”
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử.
MÙA XUÂN CHÍN
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
– Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi.
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây.
Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
– Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
(Sáng tác 1937, in trong tập Thơ Hàn Mặc Tử,
Sở Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình, 1988, tr 78)

Dàn ý
Mở bài
– Giới thiệu về nhận định của Chế Lan Viên, nhấn mạnh tầm quan trọng của hình, ý, tình trong thơ ca.
– Dẫn dắt vào bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử như một minh chứng rõ nét cho nhận định trên.
Thơ ca là tiếng nói của tâm hồn, nơi kết tinh những rung cảm tinh tế của con người trước cuộc sống. Chế Lan Viên từng nhấn mạnh rằng thơ cần có hình để người ta thấy, có ý để người ta nghĩ và có tình để chạm đến trái tim. Nhận định này đã khẳng định sự kết hợp hài hòa giữa hình ảnh, tư tưởng và cảm xúc trong một bài thơ. “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử chính là một minh chứng điển hình, khi tác phẩm không chỉ vẽ nên bức tranh mùa xuân sống động mà còn truyền tải những suy tư sâu lắng về thời gian, cuộc đời và những hoài niệm da diết.
>>> Xem thêm: Cách phân tích đề bài nghị luận văn học hay, chi tiết
Thân bài
1. Giải thích nhận định
✨ KHO TÀI LIỆU NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CHO GEN Z HỌC ĐỈNH ✨
– Thơ cần có hình: Hình ảnh là phương tiện quan trọng giúp thơ biểu hiện tư tưởng, cảm xúc, tạo nên sự sinh động, cụ thể.
– Thơ cần có ý: Thơ phải có nội dung, tư tưởng sâu sắc, mang thông điệp nhất định.
– Thơ cần có tình: Yếu tố tình cảm giúp thơ chạm đến trái tim người đọc, tạo nên sự rung động.
– Nhận định nhấn mạnh sự kết hợp hài hòa giữa hình ảnh, tư tưởng và tình cảm trong một tác phẩm thơ ca.
2. Lý giải tại sao thơ cần có hình, có ý, có tình?
– Văn chương phản ánh và biểu đạt thế giới qua hình tượng nghệ thuật, giúp người đọc dễ dàng tiếp nhận.
– Thơ ca thiên về phương thức trữ tình, hướng đến biểu đạt thế giới nội tâm của con người.
– Sự kết hợp giữa hình, ý, tình giúp thơ trở nên sống động, chạm đến cảm xúc và tư duy của người đọc.
3. Phân tích, chứng minh qua bài thơ “Mùa xuân chín”
– Khái quát về tác giả Hàn Mặc Tử và bài thơ “Mùa xuân chín”
– Luận điểm 1: Hình ảnh thơ sống động, có sức biểu cảm mạnh mẽ
+ Hình ảnh mùa xuân hiện lên với “làn nắng ửng”, “khói mơ tan”, “mái nhà tranh lấm tấm vàng” – tất cả tạo nên bức tranh xuân tươi sáng, nhẹ nhàng.
+ Sử dụng từ láy, biện pháp nhân hóa, đảo ngữ giúp thơ có tính tạo hình cao.
– Luận điểm 2: Ý thơ sâu sắc, tình thơ thấm đượm
+ Tiếng hát của thôn nữ “vắt vẻo lưng chừng núi” – sự kết hợp giữa hình ảnh và âm thanh, gợi lên nét đẹp bình dị của làng quê.
+ Tiếng hát không chỉ vang vọng mà còn đánh thức những xúc cảm trong lòng người.
+ Tâm trạng của tác giả: Xúc động trước cảnh xuân chín, bâng khuâng nhớ về làng quê, về tuổi trẻ đã qua.
+ Hình ảnh “chị ấy” gợi lên sự trăn trở về thời gian, về những đổi thay trong cuộc sống.
– Luận điểm 3: Ý nghĩa tư tưởng của bài thơ
+ Thơ không chỉ đẹp về hình ảnh mà còn mang ý nghĩa sâu sắc về cuộc đời, về thời gian, về tình yêu quê hương.
+ Gửi gắm thông điệp sống lạc quan, yêu đời, trân trọng những khoảnh khắc đẹp của cuộc sống.
4. Đánh giá nhận định
– Hình, ý, tình là ba yếu tố quan trọng tạo nên sức sống của tác phẩm thơ.
– Quan niệm của Chế Lan Viên đúng đắn, thể hiện góc nhìn sâu sắc về nghệ thuật thơ ca.
– Người sáng tác cần kết hợp hài hòa giữa nội dung và hình thức để tạo nên tác phẩm có giá trị.
– Người đọc cần có sự cảm nhận tinh tế để thấy được cái hay, cái đẹp của một bài thơ.
Kết bài
– Khẳng định lại nhận định của Chế Lan Viên và giá trị của bài thơ “Mùa xuân chín”.
– Đánh giá tài năng nghệ thuật của Hàn Mặc Tử trong việc kết hợp nhuần nhuyễn hình, ý, tình.
– Mở rộng suy nghĩ: Văn học chân chính luôn chứa đựng sự hòa quyện giữa hình thức và nội dung, giúp người đọc rung cảm và suy ngẫm.
Thơ ca không chỉ đơn thuần là sự sắp xếp của ngôn từ mà còn là sự kết tinh của hình ảnh, tư tưởng và cảm xúc. Nhận định của Chế Lan Viên đã khẳng định vai trò quan trọng của sự kết hợp giữa hình, ý và tình trong thơ, giúp tác phẩm có sức sống mãnh liệt và chạm đến trái tim người đọc. Bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử là minh chứng rõ nét cho quan điểm này, khi tác giả không chỉ tạo nên một bức tranh mùa xuân rực rỡ mà còn truyền tải nỗi niềm bâng khuâng, hoài niệm về thời gian và tuổi trẻ. Từ đó, có thể thấy rằng, thơ ca chân chính là sự hòa quyện của nghệ thuật và tâm hồn, là cầu nối giữa người viết và người đọc, để lại dư âm sâu sắc trong lòng mỗi người.
Bài văn mẫu
Đề bài: Bàn về thơ, Chế Lan Viên cho rằng: “Thơ cần có hình cho người ta thấy, có ý cho người ta nghĩ và cần có tình để rung động trái tim”
Anh chị hiểu ý kiến trên như thế nào?Bằng trải nghiệm văn học của mình, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên?
Bài làm
Văn chương vì lẽ nào lại hấp dẫn lòng người? Điều gì đã khiến người ta mê mẩn một áng thơ thay vì chìm đắm trong những thú vui vật chất tầm thường khác? Câu hỏi này dường như vẫn còn đó với muôn vàn lý do mà ta chẳng thể nói hết. Cái hay của thơ có chăng là cái hay của sự hoà điệu, cái hay của cuộc hôn phối giữa hình – ý- tình: “Thơ cần có hình cho người ta thấy, có ý cho người ta nghĩ và cần có tình để rung động trái tim” (Chế Lan Viên).
Người đọc bước vào cõi thơ như bước vào không gian đầy linh nghiệm của cảm giác. Cảm giác mơ hồ khi bất giác cảm nhận cái “hình” của bài thơ. Đấy là vỏ bọc hình thức, là phương tiện chuyển tải những ý đồ, tư tưởng của thi nhân. Vì thế mà thông qua “hình”, người đọc khám phá ra “ý”, vỡ lẽ ra nội dung, bừng ngộ về tư tưởng, bài học thông điệp. Những giá trị ấy là cái đọng lại trong tâm thức độc giả sâu kín và mạnh mẽ nhất bởi sự phối kết của “tình để rung động trái tim”. Những dư vị cảm xúc, những cung bậc thăng trầm của tiếng lòng được gửi vào thơ chính là thứ nhằm khu biệt thơ ca, đọc thơ ta như lắng nghe cuộc trò chuyện đầy tâm tình giữa người viết và kẻ tri âm. Để rồi, khi trang sách gấp lại, bao dư âm, bao cảm giác mơn man cứ thế xâm lấn lấy tâm hồn độc giả. Như vậy, khi luận bàn về thơ ca, Chế Lan Viên đã đề ra những yêu cầu bao hàm, nhấn mạnh tới đặc trưng nghệ thuật của thơ: thơ là sự kết hợp giữa hình- ý –tình, hình thức cho người đọc sự khám phá, nội dung cho người đọc sự chiêm nghiệm và tình cảm để người đọc lắng sâu.
Mỗi tác phẩm nghệ thuật khi ra đời đều là một chỉnh thể nghệ thuật hoàn mỹ, là sự nỗ lực của nhà thơ trong việc cấu trúc và định hình văn bản. Bởi vậy, chưa cần biết anh sẽ nói gì, thơ trước hết “cần có hình cho người ta thấy”. Tại đó, hình thức thơ như một sự chỉ đường cho bạn đọc dấn thân vào hành trình thám mã và khai phá văn bản. Chạm vào từng tiếng thơ, nhìn sâu vào từng kẽ hở ngôn từ, bạn đọc sẽ dần dần đào sâu được những điều mà nhà thơ gửi gắm, tâm đắc. Nếu không, kẻ xem thơ sẽ chẳng tài nào hiểu hết được ý vị của thơ, chẳng khác nào hóa thân vào vai “cưỡi ngựa xem hoa”, đi bên lề thơ ca mà phán xét thơ ca. Không chỉ vậy, một hình thức độc đáo, mới lạ bao giờ cũng là cái thu hút bạn đọc ngay khi vừa chiêm ngưỡng một tác phẩm. Khoái cảm thơ vì thế luôn cần “hình cho người ta thấy”. Từ cấu tứ thơ mới lạ đến cách diễn đạt, sắp đặt con chữ tài tình đều khiến thơ trở nên ấn tượng đối với bạn đọc. Đó cũng chính là lý do khiến thơ bậc thang của Trần Dần, thơ chữ cái của Từ Huy… trở thành những cách tân thơ mới mẻ, đánh dấu một bước ngoặt của thơ ca trong cách biểu đạt và thể hiện nội dung.
Thế nhưng, “thơ hay như người con gái đẹp, cái để làm quen là nhan sắc và cái để chung sống với nhau lâu dài là đức hạnh” (Viên Mai). Thơ ca nếu thiếu đi “ý cho người ta nghĩ” sẽ chẳng khác nào một mớ chữ cạn khô hồn cốt, nghèo nàn ý vị. Trong khi đó, người nghệ sĩ lại có vô vàn điều dồn nén, vô vàn những ý nghĩ muốn bộc bạch và gửi gắm vào thơ. Bởi vậy một trang thơ hay chẳng thể nào vắng bóng những bài học thông điệp, những tư tưởng nhân văn. Đấy là thứ khiến bạn đọc phải chiêm nghiệm, suy ngẫm lâu dài để hun đúc. Để rồi, thơ ca trở nên có ích với con người hơn, thơ ca trở nên đáng giá trong việc khiến con người trở nên “người hơn” (Thanh Thảo). Tại địa hạt thơ ca, bạn đọc sẽ cảm nhận được những biến chuyển trong nội tâm mình, sự trưởng thành trong quan niệm và nhận thức. Người đọc tìm thấy thơ như tìm thấy một cách sống, một lối hành xử, ứng đối trong cuộc đời. Thậm chí, đôi khi thơ ca còn phản tỉnh con người, đánh thức trong con người ý niệm về sự ăn năn, xấu hổ để con người tự hoàn thiện mình. Chẳng cần một bản cáo trạng đanh thép về sự thoái hóa, suy đồi trong nhân cách của con người, “Tiếng vọng” của Nguyễn Quang Thiều cứ thế ám ảnh trong lòng bạn đọc bởi sự vô tình vô cảm của nhân sinh khi đối diện với một sinh mạng: “Những quả trứng lại lăn vào giấc ngủ/ Tiếng lăn như đá lở trên ngàn”. Có thể thấy, qua những “ý cho người ta nghĩ” người đọc dần hiểu mình và hiểu đời hơn.
Song thơ ca nếu chỉ diễn giải một vài ý khô khan sẽ chẳng thể nào ghim sâu vào tâm trí con người, thơ ca khu biệt với những loại hình khoa học khác chính bởi “tình để rung động trái tim”. Khi đọc thơ, ta như được hòa mình vào những cung bậc cảm xúc khác nhau, từ vui buồn, giận hờn đến yêu thương, trắc ẩn. Chính những rung động ấy đã tạo nên sức mạnh kỳ diệu của thơ, giúp nó in sâu vào tâm trí chúng ta. Có “tình”, mọi “ý” trong bài thơ sẽ dần dần lan thấm vào tâm hồn bạn đọc một cách tự nhiên mà không cầu kì, gượng ép. Thơ ca nếu chỉ truyền tải những đạo lý, những bài học đạo đức thì làm sao nó có thể giữ chân bạn đọc đến tận bây giờ? Thơ ca nếu chỉ toàn những lời chỉ bảo, răn dạy thì khác nào người đọc đang chịu sự một sự giáo huấn vô hình? Trái lại, bạn đọc không phải là những con chiên ngoan đạo, họ là những tâm hồn khát cầu sự kết nối và giao cảm với trái tim. Điều đó buộc người nghệ sĩ phải trút hết những tâm tư, tiếng lòng của mình vào trang thơ, viết như thể anh chẳng thể kìm nén những đợt sóng trong lòng mình thêm nữa. Chỉ khi đó, tiếng thơ mới là tiếng chân thật, lời thơ mới là lời của triệu trái tim.
Khám phá không gian thơ Xuân Diệu, người đọc nhận ra một nguồn sống dạt dào chảy trên từng ý thơ. Một hình thức mới mẻ, độc đáo, tân kì dường như đã trở thành nơi nương dựa tuyệt mỹ nhất cho cái hồ hởi, niềm yêu sự sống của tâm hồn thi nhân:
“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Đó là ham muốn của một kẻ sống tận hưởng và tận hiến. Xuân Diệu biết mình là người trần mắt thịt, chỉ là một người bình phàm, không thể chống lại sự trôi chảy của thời gian nhưng ông vẫn khát khao được nắm lấy những tế vi của đời sống. Chỉ bằng mấy chữ “thâu, riết, say” cũng đủ để diễn tả cho ước nguyện cả đời của gã là chế ngự được thiên nhiên, là giữ cả những gì linh động nhất đang tồn tại. Trước cái căng tràn và nóng bỏng của vạn vật, thì làm sao gã có thể bỏ lỡ, dù chỉ một giây. Một giây ấy mà gã ngỡ như cả đời mình, cả sức sống trong mình. Ông xem nó như một người tình, và thi nhân với cuộc đời như đang trong một mối quan hệ ân ái. “Xuân Diệu coi tình yêu như một tôn giáo nhưng là một thứ tôn giáo lãng mạn, tôn giáo nghệ sĩ” (Chu Văn Sơn). Vì vậy mà ngôn ngữ dường như không thể đuổi kịp tâm tư của nhà thơ, nhà thơ nói đến cả vấp, nói đến vụng về, thế nhưng lại là một sự vụng về đáng yêu. Lặp từ “và” ba lần rất đúng với cốt cách của một nhà thơ “ham sống”, “ham yêu”, “uống tình yêu dập cả môi” mà vẫn không nguôi nỗi khát thèm. Từ đấy mà ý thơ cũng thắp sáng trong bạn đọc niềm ham mê sống, ham mê tận hưởng những gì đẹp đẽ nhất của thế gian.
Với “Cáo tật thị chúng”, Mãn Giác thiền sư lại đem lại cho bạn đọc những suy nghiệm sâu sắc về cuộc đời, ý niệm giữa được và mất thông qua hình thức đăng đối chuẩn chỉnh và sự bình thản toát lên từ trong tiếng thơ:
“Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
…..
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.”
Cặp từ “lạc- khai” đã mở ra trước mắt nhân sinh một cái nhìn hoàn toàn mới, trái ngược với thói quen suy nghĩ thông thường. Nếu người đời luôn cho rằng hoa nở rồi hoa lại tàn thì ông lại biểu thị một ý niệm: hoa tàn rồi hoa lại nở, trong diệt có sinh, trong chấm dứt có khởi đầu. Trên cuộc đời này, không có cái gì gọi là diệt, là chấm dứt , bản chất của nó là một vòng lặp tuần hoàn để duy trì mầm sống và sự nảy nở. “Lạc” thực chất cũng là một dạng thức khác của “khai”. Nhìn nhận với tâm thế đó, con người ta sẽ nhận ra sự lạc quan, tin yêu trước mọi vần xoay của đời sống. Con người ta hốt hoảng làm gì? Hốt hoảng chẳng giải quyết được vạn sự trên thế gian! Thậm chí nó còn làm triệt tiêu đi con đường đang dài rộng phía trước. Lời thơ cứ bình thản với hàng loạt thanh bằng, mang âm hưởng đường thi đã tạo nên sự lắng đọng sâu sắc trong tâm hồn bạn đọc. Họ như bước vào một con đường hạnh ngộ để kiếm tìm sự an yên trong chính tâm hồn mình.
Như vậy, hình – ý – tình là sự phối kết trọn vẹn nhất để đứa con tinh thần của thi nhân còn đó với thời gian. Thế nhưng, hình thức ấy phải là hình thức độc đáo, mới mẻ, giàu sức gợi; “ý” thơ phải sâu nặng, hướng đến những giá trị nhân văn; và “tình” phải chân thật, mãnh liệt. Nếu không, mọi sự nông cạn và hời hợt dẫu phối kết, giao hòa đến đâu cũng chỉ là áng thơ tầm thường, vô vị. Điều ấy cũng đồng nghĩa với việc người nghệ sĩ khi hun đúc tác phẩm buộc phải sống trọn vẹn với đời, sống tha thiết với đời để đem những gì tinh túy nhất thả vào trang thơ. Anh phải trau chuốt từng con chữ, cấu tứ, lời thơ để “ý” được truyền tải một cách tài tình. Đồng thời, sống thành thật trên trang viết để tình cảm khắc sâu vào tâm trí độc giả. Bên cạnh đó, bạn đọc cũng cần trau dồi kiến văn của chính mình để cảm hết cái hay, cái sâu sắc mà người viết gửi gắm. Từ đó mà trở thành kẻ đồng sáng tạo trên trang viết.
Chế Lan Viên tâm niệm “thơ ca đồng hành cùng con người cho đến ngày tận thế”, có lẽ chính bởi ông đã nhận ra sức sống mãnh liệt của thơ ca toát ra từ sự hài hòa, trọn vẹn giữa hình thức và nội dung. Bao giờ khối liên kết ấy bị phá vỡ, khi ấy thơ ca sẽ đánh mất dần chất riêng của chính mình.
Post Views: 455
✨ KHO TÀI LIỆU NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CHO GEN Z HỌC ĐỈNH ✨