Đề bài: Bàn về thơ, có ý kiến cho rằng: Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm tới cuộc sống.
Em hãy phân tích bài thơ Không có gì tự đến đâu con của tác giả Nguyễn Đăng Tấn làm sáng tỏ ý kiến trên.
KHÔNG CÓ GÌ TỰ ĐẾN ĐÂU CON
Không có gì tự đến đâu con
Quả muốn ngọt phải tháng ngày tích nhựa
Hoa sẽ thơm khi trải qua nắng lửa
Mùa bội thu trải một nắng hai sương.
Không có gì tự đến dẫu bình thường
Phải bằng cả đôi tay và nghị lực
Như con chim suốt ngày chọn hạt
Năm tháng bao dung nhưng khắc nghiệt lạ kì.
Dẫu bây giờ bố mẹ – đôi khi
Có nặng nhẹ yêu thương và giận dỗi
Có roi vọt khi con hư và dối
Thương yêu con đâu đồng nghĩa với chiều.
Đường con đi dài rộng rất nhiều
Năm tháng nụ xanh giữ cây vươn thẳng
Trời xanh đấy, nhưng chẳng bao giờ lặng
Chỉ có con mới nâng nổi chính mình.
Chẳng có gì tự đến – Hãy đinh ninh.
(Trích Lời ru vầng trăng, Nguyễn Đăng Tấn,
NXB Lao Động, 2000, tr.42)

Dàn ý NLVH về ý kiến: “Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm tới cuộc sống” qua bài thơ “Không có gì tự đến đâu con” của nhà thơ Nguyễn Đăng Tấn
Giới thiệu vấn đề nghị luận
– Thơ ca là tiếng lòng, là sự rung động của tâm hồn con người trước cuộc sống.
– Nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng nói: “Tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của thơ là khi đụng chạm tới cuộc sống.”
– Nhận định này nhấn mạnh vai trò của cảm xúc và hiện thực trong sáng tạo nghệ thuật, đặc biệt là thơ ca.
– Để hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa thơ và cuộc đời, ta sẽ phân tích bài thơ “Không có gì tự đến đâu con” của Nguyễn Đăng Tấn – một tác phẩm thể hiện sâu sắc tư tưởng này.
Thơ ca từ lâu đã trở thành tiếng nói tâm hồn, nơi nhà thơ gửi gắm những xúc cảm chân thật nhất của mình trước cuộc đời. Một bài thơ hay không chỉ đơn thuần là sự kết hợp của ngôn từ và nghệ thuật mà quan trọng hơn cả là sự rung động xuất phát từ trái tim người sáng tác. Nguyễn Đình Thi từng khẳng định: “Tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của thơ là khi đụng chạm tới cuộc sống.” Câu nói ấy đã chỉ ra bản chất cốt lõi của thơ ca – thơ không thể tách rời cảm xúc chân thành và những trải nghiệm thực tế. Khi một nhà thơ thực sự chạm vào hiện thực đời sống, những vần thơ của họ mới có thể trở nên sống động, chân thực và lay động lòng người. Để hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa thơ ca và cuộc sống, ta có thể tìm thấy sự đồng điệu trong bài thơ “Không có gì tự đến đâu con” của Nguyễn Đăng Tấn – một tác phẩm chứa đựng những cảm xúc sâu lắng và những triết lý thấm thía về cuộc đời.
>>> Xem thêm: Công thức viết mở bài nghị luận văn học đạt điểm tối đa
✨ KHO TÀI LIỆU NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CHO GEN Z HỌC ĐỈNH ✨
Giải thích nhận định
– **”Tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất”**: Là những cảm xúc chân thật, tự nhiên nhất bật lên từ trái tim nhà thơ.
– **”Đụng chạm tới cuộc sống”**: Nghĩa là thơ phải bắt nguồn từ hiện thực, từ những suy tư về con người, về cuộc đời, để có thể lay động tâm hồn người đọc.
– Nhận định này nhấn mạnh rằng thơ không chỉ là cảm xúc thuần túy, mà còn phải phản ánh được những trăn trở, suy tư về thế giới xung quanh.
Phân tích và chứng minh qua bài thơ “Không có gì tự đến đâu con”
– Giới thiệu tác giả và tác phẩm
+ Nguyễn Đăng Tấn là một nhà thơ có phong cách bình dị nhưng giàu chất triết lý, luôn trăn trở về những giá trị sống.
+ Bài thơ “Không có gì tự đến đâu con” là lời dặn dò đầy yêu thương của người cha dành cho con, khẳng định giá trị của sự nỗ lực và ý chí trong cuộc sống.
– Phân tích tác phẩm
Luận điểm 1: Bài thơ thể hiện tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn nhà thơ khi chạm tới cuộc sống
+ Lời cha dặn con về quy luật cuộc sống: Thành công không tự nhiên mà có, mà phải trải qua gian nan, thử thách.
+ Điệp ngữ **”Không có gì tự đến”** lặp đi lặp lại, nhấn mạnh rằng mọi thành quả đều có nguồn gốc, không gì là ngẫu nhiên.
+ Kết cấu hai vế trong từng câu thơ: Vế đầu nói về thành quả, vế sau nhấn mạnh sự nỗ lực để đạt được.
+ Hình ảnh giàu sức gợi: **”Như con chim suốt ngày chọn hạt”** – một phép so sánh tinh tế để nhắn nhủ về sự kiên trì, cần mẫn.
+ Nghệ thuật nhân hóa: **”Năm tháng bao dung nhưng khắc nghiệt lạ kỳ”**, thể hiện sự song hành giữa cơ hội và thử thách trong cuộc sống.
Luận điểm 2: Lời cha dạy về tình cảm gia đình
+ Con có thể chưa hiểu hết những quy luật cuộc sống, có lúc ham chơi, mắc lỗi, nhưng cha mẹ luôn yêu thương, bao dung.
+ **”Nặng nhẹ”, “yêu thương”, “roi vọt”** – những biện pháp giáo dục vừa nghiêm khắc vừa đầy yêu thương.
+ Dù nghiêm khắc nhưng tình yêu cha mẹ dành cho con vẫn luôn vững chắc, không bao giờ thay đổi.
Luận điểm 3: Lời cha nhắn nhủ về ý chí và nghị lực
+ Hình ảnh ẩn dụ **”Đường con đi dài rộng rất nhiều”**, **”Giữ cây vươn thẳng”**, thể hiện những thử thách phía trước mà con cần đối mặt.
+ Dấu gạch ngang ở câu cuối cùng của bài thơ như một lời nhấn mạnh, để con khắc ghi những điều cha dạy.
+ Từ láy **”đinh ninh”** chứa đựng tình cảm thiêng liêng và niềm tin của cha dành cho con.
– Đánh giá về nghệ thuật của bài thơ
+ Thể thơ tự do phù hợp với việc thể hiện những lời thủ thỉ, tâm tình.
+ Hình ảnh giản dị nhưng mang ý nghĩa sâu sắc, có tính triết lý về cuộc sống.
+ Giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết nhưng cũng rất trang trọng, nghiêm túc.
+ Biện pháp tu từ như điệp ngữ, nhân hóa, so sánh được sử dụng hiệu quả để tạo sức gợi.
Đánh giá và mở rộng vấn đề
– Nhận định của Nguyễn Đình Thi hoàn toàn chính xác: Thơ ca không thể tách rời cảm xúc, nhưng cũng không thể xa rời cuộc sống.
– Mỗi tác phẩm thơ chân chính đều xuất phát từ những rung động mãnh liệt của nhà thơ trước thế giới xung quanh.
– Quá trình sáng tạo thơ không kết thúc khi tác phẩm ra đời, mà tiếp tục sống mãi trong tâm hồn người đọc qua những cảm nhận và rung động cá nhân.
Bài học cho người sáng tác và người đọc
– **Với người sáng tác**: Cần viết bằng trái tim, bằng những cảm xúc chân thực trước cuộc đời, để thơ ca thực sự có ý nghĩa.
– **Với người đọc**: Cần biết lắng nghe, cảm nhận và trân trọng những giá trị nghệ thuật và cảm xúc mà nhà thơ gửi gắm qua tác phẩm.
Kết luận
– Thơ ca là tiếng nói của trái tim khi chạm tới cuộc đời, phản ánh những điều giản dị nhưng sâu sắc về con người và cuộc sống.
– Nhận định của Nguyễn Đình Thi không chỉ giúp ta hiểu rõ hơn về bản chất của thơ ca mà còn khẳng định rằng, một tác phẩm hay luôn là sự kết hợp giữa cảm xúc và hiện thực.
– Mỗi bài thơ không chỉ là câu chữ mà còn là những cảm xúc, những suy tư mà nhà thơ để lại cho đời, để người đọc cảm nhận, suy ngẫm và trưởng thành hơn qua từng trang thơ.
Thơ ca không chỉ là nghệ thuật ngôn từ mà còn là hơi thở của cuộc sống, là tiếng lòng chân thật nhất của con người trước những biến động của đời. Một bài thơ có thể lắng đọng trong tâm trí người đọc không chỉ nhờ vẻ đẹp của câu chữ mà còn bởi những rung động mạnh mẽ, những chiêm nghiệm sâu sắc mà nó mang lại. Nhận định của Nguyễn Đình Thi đã khẳng định bản chất cốt lõi của thơ: chỉ khi chạm đến hiện thực cuộc sống, thơ mới có thể cất lên tiếng nói thực sự của mình. Bài thơ “Không có gì tự đến đâu con” của Nguyễn Đăng Tấn không chỉ là lời nhắn nhủ của người cha dành cho con, mà còn là minh chứng rõ nét cho sự gắn bó giữa thơ ca và đời sống. Mỗi vần thơ chứa đựng cả tình yêu thương, niềm hy vọng và bài học quý giá về nghị lực, ý chí vươn lên. Khi đọc một tác phẩm thơ, không chỉ là thưởng thức cái đẹp mà còn là quá trình đối thoại với cuộc sống, để từ đó ta hiểu hơn về chính mình, về những giá trị thực sự của con người.
Bài văn mẫu NLVH về ý kiến: “Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm tới cuộc sống” qua bài thơ “Không có gì tự đến đâu con” của nhà thơ Nguyễn Đăng Tấn
[BÀI VĂN HAY CỦA HSG – “Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm tới cuộc sống”]
Từng nốt nhạc du dương trầm mặc của Bản Sonate Ánh trăng đều khiến lòng người lặng đi vì xúc động. Phải chăng Beethoven đã viết bản nhạc bằng những xúc cảm tinh tế mà mãnh liệt nhất ngay khi nhìn thấy cảnh sống của cha con cô gái mù. Quy luật của nghệ thuật nói chung là bắt nguồn từ dòng tình cảm. Thơ ca cũng thế. Nguyễn Đình Thi từng nói “Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm tới cuộc sống”.
Người thợ làm bánh làm ra chiếc bánh thạch bằng một tình yêu với món bánh quê nhà, người họa sĩ vẽ bức tranh mùa thu bằng cái hồn say đắm thiên nhiên đất nước. Còn nhà thơ viết câu thơ bằng chính rung động của mình trước bất kỳ khía cạnh nào của cuộc sống xung quanh. “Thơ” là một thể loại trữ tình dùng ngôn từ, vần và nhịp để biểu thị nội dung. Nguyễn Đình Thi cho thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn, tức thơ dùng để biểu thị, bộc lộ thứ tình cảm sâu kín trong trái tim. Thơ nói hộ trái tim người nghệ sĩ, thơ gảy khúc đàn từ chính rung động của thi nhân. Nhưng phải là tiếng nói “đầu tiên”, “thứ nhất”, tức những rung cảm chợt xuất hiện, chợt nảy sinh khi nhà thơ vừa “đụng chạm tới cuộc sống”. Ý kiến của Nguyễn Đình Thi đã đề cập đến đặc trưng cơ bản của thơ: Thơ ca bắt nguồn từ tình cảm, tâm tư và cũng là công cụ để bộc lộ tình cảm mãnh liệt.
Jose Martin cho rằng “thiếu tình cảm thì chỉ có thể trở thành người thơ làm những câu có vần chứ không thể trở thành nhà thơ”. W Goethe thì nói “thơ ca là bùng cháy của trái tim”. Xuất phát từ đặc trưng văn học nói chung là phản ánh đời sống khách quan qua lăng kính chủ quan, qua sự sàng lọc và gửi gắm tư tưởng, tình cảm của tác giả. Thơ cũng là một thể loại của văn chương và thơ không đứng ngoài quy luật ấy. Thơ phản ánh cuộc sống, ấy là lúc các nhà
thơ khám phá cuộc đời, là khi Huy Cận nhìn thời thế mà cất bút lên viết “Tràng Giang” buồn mênh mang, khi Tố Hữu nhớ lại ngày mình được ánh sáng của Đảng chiếu rọi mà viết nên “Từ ấy”. Nhưng thơ là một thể loại trữ tình, vạch xuất phát của thơ là tình cảm, đích đến của thơ cũng là thể hiện tình cảm, là đem sự thật kia vào câu chữ để mỗi chữ vang lên đều như một nốt nhạc thăng hoa từ tình cảm của thi nhân. Người nghệ sĩ đến với thi ca là để được giãi bày. Anh nhìn thấy một cụ già, một em nhỏ, anh thương cho cụ già kia, rạo rực nét ngây thơ của em nhỏ kia. Tình cảm xuất hiện rất nhanh, lần đầu tiên thôi nhưng dâng lên mãnh liệt đến nỗi anh phải dùng thơ mà diễn đạt. Người viết bộc lộ cảm xúc của mình về cuộc sống nhưng lại vô tình (hay cố ý) thỏa mãn được nhu cầu khám phá tình cảm, tình người tri âm của độc giả khi đến với thơ ca. Thế giới nứt làm đôi, vết nứt xuyên qua trái tim người nghệ sĩ và khi đến với người đọc thì nó đã nhuốm máu nhà thơ. Vệt máu ấy đọng lại trong tim người đọc như một vùng sáng, tìm đến trái tim họ để cùng sẻ chia, hàn gắn.
Nếu đến với khoa học vật lý, hóa học, người ta chỉ tìm thấy những định luật, định lý khô khan thì đến với văn chương người đọc cùng hòa mình trong cảm xúc của tác giả. Không phải tự nhiên đâu mà Mạc Ngôn, nhà Nobel văn học năm 2012 lại nói “Bạn có thể tìm thấy mọi thứ tôi muốn nói trong tác phẩm của tôi”. Thơ như một ngọn núi cao hiểm hóc nhưng thơ mộng, người đọc không dễ leo lên mà vẫn muốn leo lên để thấy thi nhân đã cảm nhận thế giới như thế nào.
Nếu coi nền văn học Việt Nam là bầu trời đầy sao rực rỡ thì không ít những nhà thơ trung đại là ánh sao sáng rực, chiếm một góc trời. Con người trung đại làm thơ bắt nguồn từ tình cảm, có những thứ tình cảm rất riêng, rất tinh tế nhưng vẫn nói được tiếng nói của nhiều kiếp người nơi ấy. Nguyễn Du là một tác gia điển hình cho điều đó. Người đời ca ngợi Nguyễn Du với “Truyện Kiều” nhưng tôi lại thích một Đại thi hào trong “Độc Tiểu Thanh kí”.
Độc Tiểu Thanh ký là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn thi nhân. Sống trong thời đại đầy biến động, nơi số phận con người như thuyền trên nước, trôi nổi bấp bênh, Nguyễn Du lại tìm thấy tập thơ của nàng Tiểu Thanh khi xưa và chẳng ai xui khiến ông tìm về viếng nàng. Chính niềm xót thương đồng cảm ấy – thứ tình cảm đầu tiên nảy sinh ấy đã thành dòng sông cảm hứng để ông viết nên bài thơ này. Nhìn thời thế, nhìn cuộc sống, nhà thơ nghĩ đến sức mạnh của thời gian:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”
Đọc hai câu đề, người đọc có thể nói: Sống lâu như vậy rồi, quan niệm thời gian trong câu này đâu còn là thứ “tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất”. Xin thưa rằng chiêm nghiệm thì đã lâu, nhưng chỉ trong hoàn cảnh viếng nàng Tiểu Thanh này, nỗi sợ mới lên đến đỉnh điểm. Tây Hồ đẹp vậy mà giờ đã hóa gò hoang, điêu tàn, chết chóc. Chữ “tẫn” như ẩn chứa cả sức mạnh hàng vạn năm. Nguyễn Du thốt lên chữ ấy vì ông sợ cái sức mạnh khủng khiếp của thời gian, nỗi sợ phần nào giống với Hồ Xuân Hương “văng vẳng trống canh dồn”. Trước đó người đọc từng cảm nhận đại thi hào thương cho nàng Kiều nhưng đó là tình thương đối với người trong nước. Ở đây người ta lại gặp một tri âm tiếc thương, cảm thông vượt cả thời gian, xuyên không gian ra ngoài biên giới. Đây không phải là “tiếng nói đầu tiên, thứ nhất” xuất hiện trong
tâm khảm thi nhân là gì? Hình ảnh một người với một mảnh giấy bên một song cửa, viếng một người, hai người họ đã là tri âm.
Khi đại thi hào “đụng chạm tới cuộc sống” đâu đâu cũng chỉ thấy bóng người khuất oan, đâu đâu cũng chỉ mang nỗi đau vạn cổ, như trong “Văn tế thập loại chúng sinh” ông thương đứa trẻ mới lọt lòng:
“Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế vào ra
U ơ tiếng khóc thiết tha não lòng”
Còn ở đây ông thương cho tất cả cái tài, cái đẹp trong xã hội:
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu Văn chương vô mệnh lụy phần dư”
Son phấn là ẩn dụ cho người con gái hay sắc đẹp nói chung, văn chương là ẩn dụ cho cái tài nói chung, chúng có “thần chôn vẫn hận”, “không mệnh đốt còn vương”. Bằng nghệ thuật nhân hóa, bằng “con mắt nhìn suốt sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời”, tấm lòng nhà thơ nhìn thấu con người và sự việc, xoa dịu cả nỗi khắc khoải nhất, oan uổng nhất (xuất phát từ nỗi oan của nàng Tiểu Thanh) để rồi hết lòng trân trọng cái tài, cái đẹp nhưng cũng hết lòng đồng cảm, xót thương. Hai câu thực đối nhau nhưng là đối tương đồng. Tất cả hình ảnh, ngôn từ đều hướng đến bày tỏ nổi lòng của tri âm. Ấy là tâm tư hồn thi sĩ vậy. Tâm hồn như sợi dây đàn, một khi đã rung lên thì ngòi bút tràn trề cảm xúc.
Thương cho người chỉ là một nửa trái tim, nửa còn lại, thi hào thương cho chính bản thân mình:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn Phong vân kì oan ngã tự cư”
Nỗi oan trời không biết đất không hay, đó là cái nỗi oan gì vậy? Tự nhận mình là “ngã tự cư”, một kẻ cùng hội cùng thuyền với những người bất hạnh ấy, phải chăng Nguyễn Du đang rất đau. Lần đầu tiên người ta thấy được lời than trực tiếp cho cái tôi của mình trong văn học, quả là một ngòi bút đi trước thời đại. Trong ca dao cũng có “thân em”, “thân cò” nhưng biết thân ấy là ai? Nguyễn Du đã thật sự dùng thơ làm tiếng nói tâm hồn nên thậm chí còn dám xưng danh bằng một câu hỏi:
“Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
Nhưng tình cảm của nhà thơ không giống “ba trăm năm nữa” chỉ là con số tưởng tượng. Ba trăm năm hay vài thế kỷ nữa trôi qua, trong tương lai, có ai còn khóc cho ông như ông đang khóc nàng Tiểu Thanh, có ai còn nhớ đến cái tên Tố Như không? Nguyễn Du xưng danh để khao khát nhưng khi kết hợp với câu hỏi tu từ thì lại có phần khắc khoải, mơ hồ, bất lực. Hỏi chỉ để hỏi thôi, hỏi nhưng chẳng có lời nào vọng lại. Đọc đến câu thơ này, tiếng nói của tâm hồn nhà thơ đã được bộc bạch rõ. Đụng tới nỗi đau của mình và của mọi kiếp người trong cuộc sống, lòng nhà thơ đã rung, tay nhà thơ đã viết, những câu từ như lời nói phát ra từ cổ họng, tự kêu, tự thương, tự mơ ước cho chính mình. Dấu chấm câu kết thúc, người đọc vẫn
thấy dư vang của một thời – cái cuộc sống mà thi nhân đã đụng chạm, đã nằm trong đó, đã bị cái gai của cuộc sống cắm vào. Nhưng dư âm càng sâu hơn nữa đó là sự trân trọng với tác giả, cái tài và cái đẹp, đồng thời đồng cảm, thương xót, ước mơ. Và câu hỏi xưa của cụ Nguyễn, ngày nay đã có nhiều lời đáp lại. Georges Baudard – nhà văn nước ngoài từng nói “Trên thế giới không có nhà văn nào để lại chấn động mạnh mẽ đến nhân dân nước mình như Nguyễn Du ở Việt Nam”. Đúng vậy, người ta yêu Nguyễn Du là yêu một tâm hồn, một tài năng biểu đạt tâm hồn xứng là bậc thầy của dân tộc.
Ý kiến mà Nguyễn Đình Thi đưa ra là hoàn toàn đúng đắn và ý nghĩa. Nó đúng không chỉ với Nguyễn Du mà còn đúng với rất nhiều nhà thơ trung đại khác. Ta được thấy thái độ chống lại số phận của Hồ Xuân Hương, thấy tấm lòng yêu thiên nhiên và tấc dạ ưu thời mẫn thế của Nguyễn Trãi trong “Cảnh ngày hè”. Đến văn học hiện đại, ta lại cảm nhận được không khí rầm rộ, rộn ràng của các nhà thơ kháng chiến, thấy thái độ hào hứng của Phạm Tiến Duật trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, của Tố Hữu trong “Từ ấy”, của Chế Lan Viên trong “Tiếng hát con tàu”. Và không chỉ trong thơ, trong văn, bất kỳ môn nghệ thuật nào cũng cần tình cảm. Tôi từng đắm say bức tranh “Bữa ăn tối cuối cùng” của Leonardo De Vinci. Tôi thấy ở đó một tình thương vô ngần của đạo, và của chính nhà họa sĩ.
Nguyễn Đình Thi đã tạo ra một ngọn hải đăng cho các thi sĩ chèo thuyền về đúng hướng. Những ai đang viết thơ, hãy viết chúng bằng cả tấm lòng mình, hãy huy động tất cả vẻ đẹp của tâm hồn và dòng máu vào trang viết, để người đọc khi đến với tác phẩm cũng phải sống hết mình với nó, khám phá nó như tìm đường đến với ngọn hải đăng giữa biển khơi. Có vậy lịch sử văn chương mới thực sự đi lên bền vững.
Nền văn học vẫn chảy trôi và phát triển, thi ca muôn đời vẫn là lãnh địa của cảm xúc và trái tim khi nhà thơ lấy chúng ra từ hiện thực. Tôi đắm mình trong đó và tôi nghĩ mình đã đạt đến một mức nào đó đòi hỏi của người đọc thơ: yêu và khám phá.
Post Views: 238
✨ KHO TÀI LIỆU NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CHO GEN Z HỌC ĐỈNH ✨