Trình bày cảm nhận của em về nhân vật người bà trong truyện ngắn Giàn bầu trước ngõ của Nguyễn Ngọc Tư

Đề bài: Viết đoạn văn Trình bày cảm nhận của em về nhân vật người bà trong truyện ngắn Giàn bầu trước ngõ của Nguyễn Ngọc Tư

GIÀN BẦU TRƯỚC NGÕ – Nguyễn Ngọc Tư

Tôi không thích khi cưỡi xe vào tận thềm nhà lại phải rạp mình dưới giàn bầu ấy. Chị và mẹ tôi lại ngại tóc rối. Cha tôi khó chịu khi phải dắt quan khách len lỏi bên mấy trái bầu để vào căn nhà sang trọng. Nhưng không ai dám chặt phá giàn bầu bởi nó của bà nội tôi. Bà trông nó từ hồi trong quê ra. Thoạt đầu, chị em chúng tôi thích lắm, chiều chiều lon ton xách thùng ra tưới. Chúng tôi tưới như tưới hoa. Nội cười- “Bay tưới như thằn lằn đái”. Rồi bà đổ nước soàn soạt, chúng tôi nghe theo, đổ nước soàn soạt. Dây bầu lớn. Trong cái nách mập mạp lú ra mấy trái con xanh xanh. Trái bằng đầu đũa, bằng ngón tay, cườm tay rồi to to mãi. Bữa canh đầu tiên cả nhà háo hức, nuốt tuồn tuột từng miếng bầu trong veo, ngọt lịm. Ba gật gật khen ngon, day sang trách mẹ “sao trước giờ không mua bầu mà nấu ăn bà ta?”
Một lần, hai lần rồi ba lần, chúng tôi ngán tận cổ. Mà, chết thật, nội tôi cứ trồng mãi, trồng mãi, giàn bầu ngày càng rộng ra choán hết khoảng sân kiểng của cha xanh rầm rì. Trái già đến vàng khô, không ai ăn, bà mang cho hàng xóm. Hàng xóm chúng tôi cũng giàu có, họ chê nhưng cũng nhận bởi họ nể cha tôi. Nhiều quá, sớm sớm, chiều chiều, nội mang ra ngõ, này cho chị xôi chè một quả: “ăn lấy thảo”, này cho bác xích lo trái bầu “về nấu cho sắp nhỏ”. Rồi bà lại trồng. Chị Lan nhăn nhó:
– Nội ơi, trồng chi nhiều vậy?
Bà nội cười, buồn buồn.
– Nội làm lặt vặt quen rồi. Trồng trọt để đỡ nhớ quê.
Ôi cái quê của nội. Cái quê heo hút muốn về phải đỉ mấy chặng xe, tàu. Cái quê mà mỗi lần về, vào cuối mùa mưa, đất bùn quến vào móng chân tôi, ém chặt thối đen. Cái quê đèn cầy, đèn cóc, đêm nhóc nhen kêu buồn nẫu ruột, mùa lũ, lơ phơ chỉ thấy mấy nóc nhà. Ba tôi nói “làm người đừng suy nghĩ hẹp hòi, đừng tưởng nơi mình sinh ra, nơi có mồ mả ông cha là quê hương, khắp đất nước này chỗ nào cũng là quê cả”. Cha tôi nói đúng và ông rước bà nội lên thành phố. Trước, ông chủ tịch đến nhà chơi, uống bia khà khà rồi nhắc: “- Lâu quá không gặp má, hôm nào chú mầy rước má lên, tội nghiệp bà già…” Cha bưng bát hương ông đi trước, bà nội lúi húi bưng bát hương chú Út theo sau. Ở nhà tôi, công việc nhàn đến mức bà thơ thẩn vào rồi lại thơ thẩn ra. Nhà cao cửa rộng, khéo đi, cả ngày chẳng ai gặp mặt ai. Chị tôi đi học cả ngày, mẹ tôi đến sở. Bà ra cửa trước, tôi vào cửa sau, bà lên lầu, cha đi xuống, gặp nhau ở lối ngõ cầu thang, nội ngó cha, nhắc “Lúc này bay bận rộn, đến không không ăn cơm ở nhà, khéo ngã bệnh nghen con”. Cha cười “má khỏi lo”. Rồi mỗi người mỗi ngả. Bà năng xuống bếp, quấn quít ở đấy. Chị bếp khoe:
– Bác ơi, con làm bánh tổ nè, bác cháu mình cùng ăn nghen.
Bà tôi gật gù khen ngon. Tôi tò mò nhón lấy một miếng ăn thử, nó ngòn ngọt dai dai. Thứ bánh nhà quê này xem ra có khác với Sandwich, chocolate. Bà làm nhiều thứ bánh lắm, không kể hết được, nào là bánh ngọt, bánh ú….toàn là bánh nhà quê, mà hình như chỉ tôi ăn, ba mẹ, chị Lan đều tránh xa xa hỏi ” Bánh đó ăn ra làm sao? ” Tôi khoe “Sáng này nội làm bánh khọt ngọt ngon lắm.”Chị Lan tròn mắt” bánh gì tên ngộ vậy?
Ừ, ngộ, ngộ chứ. Nội mua về cái lò đất khói tù mù. Cha tôi chê. Nội mang ra ngoài hè để đỡ ám khói tường nhà. Bà bảo: “Làm bánh khọt thì phải đốt bằng lò đất, nó mới ngon”. Bà đốt lửa, mắt già tèm nhem nước mắt mùi khói thơm thơm, cay nồng. Mùa này nhiều trái bầu khô, nội hái vào móc ruột ra, lấy cái vỏ mằn mì gọt. Lâu lâu nội đưa lên nhìn, nheo nheo mắt. Tôi hỏi, nội gọt gì. Nội cười, đưa cho tôi mảnh vỏ dầy hình trái tim nỏ xíu.
– Mặt dây chuyền cho tụi nhỏ đeo.
Tôi không nén được xuỳ một tiếng.
– Thời này ai đeo mấy thứ này, nội làm chỉ mất công.
Trong đôi mắt đùng đục của bà, tôi thấy có một nỗi buồn sâu kín. Con chị bếp dưới quê lên, bà gói dúi vào tay nó mấy mảnh bầu. Con nhỏ hớn hở, vui thiệt là vui. Cũng niềm vui ấy, con bé bán vé số lỏn lẻn cười “Bà đẽo đẹp ghê ha”. Hôm sau tôi thấy nó xúng xính xỏ cọng chỉ vào, đeo tòn ten trước cổ lạ lắm. Hình như tôi ngắm vàng ròng, cẩm thạch quen rồi. Tôi xin, bà móm mém cười “Bà để dành cho bay cái đẹp nhất nè”.
Tôi gói trái tim xíu xíu kia bỏ vào ngăn tủ, chị Lan trông thấy giành “cho chị đi”. Tôi lắc đầu. Chị giận bảo “chị cóc cần, ở chợ bán hàng khối”. Nhưng rồi chị quay về nài nỉ tôi . Lần đầu tiền, tôi thấy món quà của nội dễ thường đến thế.
Giàn bầu vẫn trước ngõ. Cha tôi đã thôi khó chịu, hay bực dọc riết rồi chai đi, chẳng biết bực là gì nữa. Nhưng khách đến nhà, ai cũng khen “anh ba có giàn bầu đẹp thiệt”. Họ săm soi, từng mảng lá cuống hoa. Khách nước ngoài còn kề má bên trái bầu xanh lún phún lông tơ mà chụp hình kỷ niệm. Mấy anh chị sinh viên đạp xe ngang dừng lại nhìn đau dấu qua rào rồi kháo nhau “Nhớ nhà quá, tụi mày ơi”. Chiều chiều, tôi ra giàn bầu xanh rượi, mơ màng nghe con ong vò vẽ trên từng phiến lá, chớp mắt nhìn chim sâu lích rích chuyển cành, chuồn chuồn rồi bướm rồi hoa thi nhau nở chấp chới. Bà nội tôi yếu hơn trước, mùa mưa bắt đầu lướt sướt đi qua. Ông chủ tịch đến chơi nhà, ôm chầm lấy nội, lắc lắc “lúc này má khoẻ không?” Nội cười xoà mà nghe nghẹn nghẹn “khoẻ, má khỏe”. Cha tôi sai chị bếp mang rượu thịt ra ông chủ tịch khóa tay:
– Thôi, chú bảo chị ấy nấu canh bầu ăn.
Cha hẩng mặt. Chị bếp lúi húi gọt bầu, mùi nước canh xông vào mũi thơm lừng. Ông chủ tịch day qua bà nội khoe “lâu quá không ăn canh bầu rồi, má!” nội cười: “má nhớ bay thích nhất là ăn bầu nấu tép bạc”. Cha dôi dợm mình “để con đi mua tôm”. Ông chủ tịch ấn vai, bảo “thôi, chú cứ ngồì xuống, anh thèm lắm rồi, không chờ chú được đâu”. Hôm ấy cả nhà tôi ăn lại bát canh ngày xưa, nghe ngọt lìm lịm lưỡi. Chị bếp ngó nội, khoái chí cười đầy hàm ý. Hình như nội tôi vui.
Giàn bầu thưa hẳn đi. Cái giống lạ thật. Nắng bao lâu vẫn xanh tốt, mới mưa dầm lại héo dây. Tôi đập vỡ trái bầu khô, lấy hạt ra ươm. Mùa mưa dữ dội, nội tôi bệnh, bà bị chứng tai biến não. Nội lơ ngơ, đã cười đã khóc thì không sao dừng được, tay run rẩy cầm ca nước, bát cơm cũng khó. Trời đổ mưa, sấm giật ầm ầm, nội thều thào nhắc:
– Sắp nhỏ đừng hứng nước mưa đầu mùa, hổng tốt. Chà, mưa vầy ngập đồng rồi, ngâm giống gieo mạ đi thôi.
Bà nội lẩn thơ lẩn thẩn rồi, mà hình như bà chỉ nhớ về quá khứ. Nội hay ra ngoài hiên, chăm chăm nhìn giàn bầu đang run rẩy trong gió. Bà ngồi đấy lặng lẽ, thẫn thờ, như chờ một tiếng vạc sành, một tiếng ếch kêu. Tay bà lạnh ngắt, tôi chạy vào phòng lấy lọ dầu thoa, vẫn thấy mảnh bầu trái tim màu vàng trong ngăn kéo, cái màu vàng như của rạ, của lúa, như của mái nhà lá nhỏ lơ phơ dưới nắng chiều. Giàn bầu vẫn trước ngõ, có kẻ đi qua kêu lên, “tôi nhớ nhà”. Cha tôi bảo: “có thể bứt người ta ra khỏi quê hương nhưng không thể tách quê hương ra khỏi chúng trái tim con người.” Và cha tôi lại nói đúng.

Dàn ý Trình bày cảm nhận của em về nhân vật người bà trong truyện ngắn Giàn bầu trước ngõ của Nguyễn Ngọc Tư

Mở bài

  • Giới thiệu ngắn gọn về tác giả Nguyễn Ngọc Tư
  • Khẳng định chất thơ và chiều sâu nhân văn trong truyện ngắn của bà
  • Dẫn dắt đến truyện “Giàn bầu trước ngõ”, nêu bật hình tượng người bà
  • Đặt vấn đề nghị luận: cảm nhận về nhân vật người bà

Trong dòng chảy văn học hiện đại, Nguyễn Ngọc Tư luôn được biết đến như một cây bút giàu chất thơ, đầy tinh tế trong việc khai thác những thân phận nhỏ bé giữa cuộc đời rộng lớn. Truyện ngắn “Giàn bầu trước ngõ” là một minh chứng rõ nét cho điều đó. Ở đó, hình ảnh người bà không chỉ hiện lên bằng dáng vẻ mộc mạc, chân chất, mà còn đọng lại bởi tình yêu thương, sự khéo léo và một nỗi cô đơn thấm thía. Nhân vật người bà trong truyện chính là đại diện cho vẻ đẹp của những người phụ nữ Việt Nam – thầm lặng, tảo tần nhưng đầy nghị lực và yêu thương.

Thân bài

Người bà gắn bó sâu nặng với quê hương

Bà hiện lên trước hết là một người phụ nữ giàu tình yêu quê hương. Trong căn nhà thành phố, bà vẫn không nguôi nhớ mảnh vườn xưa nơi làng quê. Bà đem theo mình hạt giống quê nhà, trồng giàn bầu trước ngõ như một cách để giữ lại ký ức và hương vị quê hương giữa phố thị đông đúc. Việc bà tự tay chăm sóc giàn bầu, tỉ mỉ làm bánh, làm đồ chơi từ vỏ quả bầu khô, không chỉ là biểu hiện của sự khéo léo mà còn là một cách để níu giữ những giá trị mộc mạc, chân thành nơi chôn nhau cắt rốn.

Người bà giàu tình thương yêu

Qua từng chi tiết nhỏ, bà hiện lên là một người mẹ, người bà luôn lo lắng và yêu thương con cháu một cách âm thầm mà bền bỉ. Bà lo cho con ăn uống thiếu thốn, sợ con dễ sinh bệnh. Bà cố gắng làm những món ăn ngon, làm đồ chơi lạ mắt từ quả bầu chỉ để mang lại niềm vui cho các cháu. Không một lời than phiền, bà lặng lẽ làm tất cả để chăm sóc và vun vén cho gia đình. Tình thương ấy không ồn ào, nhưng lại khiến người đọc nghẹn ngào khi nghĩ đến bóng dáng những người bà, người mẹ trong cuộc sống đời thường.

Người phụ nữ tài hoa và nhẫn nại

Bà không chỉ đảm đang mà còn rất khéo léo. Việc bà làm bánh, tạo hình những món đồ trang sức từ vỏ bầu khô cho thấy bàn tay đầy tài hoa và sự kiên nhẫn, tỉ mẩn. Những thứ bà làm ra không chỉ để tiêu khiển mà còn là kết tinh của tình yêu, của nỗi nhớ và ký ức về một thời đã qua. Sự khéo léo ấy khiến hình ảnh bà trở nên đẹp đẽ và giàu chiều sâu hơn trong lòng người đọc.

Thái độ đầy yêu thương và xót xa của tác giả

Ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư dành cho người bà đầy trìu mến. Tác giả để người đọc cảm nhận được một nỗi buồn man mác ẩn sâu trong những trang văn – nỗi buồn về một người bà cô đơn giữa ngôi nhà đẹp đẽ, hiện đại nơi thành thị. Dù sống cùng con cháu, bà vẫn lạc lõng, vẫn tìm về với giàn bầu, với ký ức quê nhà như một chốn nương náu tinh thần. Chính điều đó đã khắc sâu hình ảnh bà trong tâm trí người đọc – một người phụ nữ giàu yêu thương, nhưng cũng đầy thổn thức giữa nhịp sống đổi thay.

Kết bài

  • Khẳng định lại vẻ đẹp của nhân vật người bà
  • Đánh giá đóng góp của tác phẩm trong việc khơi gợi tình thân, tình quê
  • Liên hệ đến thực tại: ý nghĩa của việc giữ gìn giá trị truyền thống

Với ngôn ngữ giản dị mà giàu sức gợi, Nguyễn Ngọc Tư đã vẽ nên chân dung người bà bằng tất cả sự trân trọng và yêu thương. Nhân vật ấy không chỉ đại diện cho hình ảnh người phụ nữ quê hương truyền thống, mà còn khiến người đọc thổn thức bởi nỗi cô đơn len lỏi trong những điều tưởng chừng như giản dị nhất. “Giàn bầu trước ngõ” vì thế không chỉ là một câu chuyện về ký ức, mà còn là một lời nhắc nhở nhẹ nhàng về tình thân, về cội nguồn và những điều bình dị mà sâu sắc trong cuộc sống hôm nay.

Bài văn mẫu Trình bày cảm nhận của em về nhân vật người bà trong truyện ngắn Giàn bầu trước ngõ của Nguyễn Ngọc Tư

Bài văn mẫu 1

Trong truyện ngắn “Giàn bầu trước ngõ”, Nguyễn Ngọc Tư không chỉ kể một câu chuyện về ký ức và tình cảm, mà còn khắc họa hình ảnh người bà đầy xúc động. Bà hiện lên trong tâm trí người đọc như một điểm tựa yêu thương, một người phụ nữ lặng thầm gìn giữ những gì thân thuộc và thiêng liêng nhất của gia đình – quê hương và ký ức.

Người bà không chỉ hiện diện qua dáng người gầy gò, đôi tay tỉ mẩn chăm chút từng dây bầu mà còn sống động trong từng cử chỉ yêu thương dành cho con cháu. Dù đã cao tuổi, sức khỏe không còn dồi dào, bà vẫn kiên nhẫn với giàn bầu của mình. Đó không chỉ là cây trái, đó là cả một vùng ký ức quê nhà mà bà mang theo, là cầu nối giữa hiện tại và quá khứ. Bà gieo từng hạt bầu như gieo vào lòng gia đình một chút hồn quê, một chút tình thương không lời.

Không ồn ào, không hoa mỹ, tình yêu thương của bà lan tỏa qua từng việc làm nhỏ bé – làm bánh, khâu áo, kể chuyện, và trên hết là chăm sóc giàn bầu trước ngõ. Những quả bầu khô, những món đồ chơi tự tạo trở thành biểu tượng của sự khéo léo và tận tụy. Người bà ấy không chỉ yêu gia đình mà còn dạy con cháu cách gìn giữ điều quý giá nhất: cội nguồn.

Hình ảnh người bà trong truyện để lại trong tôi một cảm giác vừa ấm áp, vừa man mác buồn. Giữa phố thị hiện đại, bà vẫn lặng lẽ sống với ký ức, với tình cảm nặng nghĩa quê hương. Và chính điều đó khiến nhân vật bà trở nên đẹp đẽ, đầy sức sống, khiến ta không thể nào quên.

Bài văn mẫu 2

Đọc “Giàn bầu trước ngõ” của Nguyễn Ngọc Tư, tôi không khỏi xúc động trước hình ảnh người bà mộc mạc mà sâu sắc. Bà không chỉ là một người bà trong gia đình, mà là hiện thân của tình yêu quê hương, của sự bền bỉ, của một tâm hồn gắn bó với ký ức và những giá trị cũ.

Trong căn nhà giữa thành phố, người bà ấy vẫn chăm chút từng dây bầu như đang chăm sóc một phần máu thịt quê nhà. Giàn bầu đối với bà không chỉ là thực vật, mà là một thế giới chan chứa yêu thương và kỷ niệm. Nhìn bà kiên nhẫn gieo trồng, tôi hình dung ra một người phụ nữ sống trọn với ký ức, gìn giữ từng chút quê hương trong từng chiếc lá, từng trái bầu.

Tình yêu của bà dành cho gia đình cũng lặng lẽ như cách bà sống. Bà không cần ai phải nói lời biết ơn, không cần điều gì đáp lại, chỉ âm thầm làm tất cả những gì tốt nhất cho con cháu. Dù đã già, bà vẫn lo lắng nếu con ăn uống không đủ chất, vẫn muốn tự tay làm ra những món bánh, những món đồ chơi để mang lại niềm vui cho bọn trẻ. Sự chăm sóc ấy khiến người ta cảm thấy ấm lòng, cảm nhận được một tình yêu thương không điều kiện.

Có lẽ điều khiến tôi nhớ nhất về nhân vật người bà chính là sự lặng lẽ của bà giữa một thế giới ồn ã. Bà không nói nhiều, không thể hiện nhiều, nhưng mọi thứ bà làm đều thấm đẫm tình yêu và sự thủy chung với gia đình, với quê hương. Hình ảnh bà và giàn bầu trước ngõ vì thế không chỉ là một chi tiết truyện, mà là một biểu tượng sống động của lòng hiếu thảo và tình thân.

Bài văn mẫu 3

Tôi đã đọc nhiều truyện ngắn viết về tình cảm gia đình, nhưng “Giàn bầu trước ngõ” của Nguyễn Ngọc Tư lại để lại trong tôi một cảm giác rất khác. Đó là câu chuyện không chỉ của một người bà, mà còn là câu chuyện về sự gắn bó, về cội nguồn và tình yêu thương âm thầm mà mãnh liệt.

Người bà trong truyện khiến tôi nhớ đến chính bà ngoại của mình – cũng giản dị, lặng lẽ và khéo léo. Bà trong truyện mang theo cả một miền ký ức quê hương vào giữa thành phố. Với bà, giàn bầu không chỉ là nơi để hái trái mà còn là nơi để nhớ, để yêu, để sống lại một phần đời xưa cũ. Từng chiếc lá, từng trái bầu là từng mảnh ghép của ký ức, từng lần bà tưới nước như một lời nhắn gửi với quá khứ.

Tình yêu thương bà dành cho con cháu cũng khiến tôi xúc động. Không phải là những lời hoa mỹ, cũng chẳng phải món quà đắt tiền, bà dành cho cháu những điều bình dị mà sâu sắc – chiếc bánh ngon, món đồ chơi nhỏ xinh làm từ vỏ bầu, cái vuốt tóc nhẹ nhàng. Bà hiện lên như một dòng sông êm đềm, nuôi dưỡng, chở che, âm thầm mà không bao giờ cạn.

Đối với tôi, người bà trong truyện chính là một biểu tượng của sự kiên trì và lòng hi sinh. Dù tuổi cao, sức yếu, bà vẫn cần mẫn sống với những giá trị đã nuôi dưỡng tâm hồn mình. Qua hình ảnh bà, tôi nhận ra rằng, có những điều dù nhỏ bé thôi nhưng đủ để gắn kết một gia đình, để làm nên những ký ức ấm áp đi theo con người suốt cuộc đời.

Yêu thích

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *