Trình bày cảm nhận về số phận và vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật mụ trong tác phẩm Miền thương thăm thẳm

Đề bài: Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) Trình bày cảm nhận về số phận và vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật mụ trong tác phẩm Miền thương thăm thẳm

MIỀN THƯƠNG THĂM THẲM

Khách đến ngồi nhâm nhi ly café trên tầng hai nhà hàng mới mọc ở làng Chùa vẫn thường tò mò mỗi khi nhìn ra xa qua ruộng lúa nho nhỏ là con đường đất nhô cao như sống lưng con bò mùa hạn hán ngay trước mặt. Ở đó, họ luôn nhìn thấy một người đàn bà trạc ngoài 40, ngồi bệt bên vệ cỏ, như ngóng đợi điều gì. Đã từ nhiều năm trước, đó là chỗ của mụ. Người ta nhìn thấy mụ ngồi bên gốc cây xoan khi nó còn ngả lòa xòa những cành non vào mặt mụ, giờ nó đã là chỗ tựa lưng vững chãi cho mụ rồi.
Con đường đê, thực ra chỉ là một lằn đất làm ranh giới giữa một bên là chiếc ao làng, còn một bên nhìn ra cánh đồng mênh mông lúa, giờ chỉ còn bước chân đều đặn của mụ lai vãng. Từ ngày thôn mở con đường mới ngang qua xóm Hạ, không ai còn muốn đi qua con đường heo hút ấy nữa.
Mụ cứ ngồi đó mỗi ngày từ bắt đầu chiều cho đến nhá nhem, có người đi lôi gọi mụ mới chịu về. Thời gian đầu không thấy mụ ở nhà thì hàng xóm tá hỏa đi tìm khắp nơi, sợ mụ nghĩ quẩn. Rồi họ tìm thấy mụ đang ngồi im như tượng gỗ bên cái cây xoan gầy ngẳng ấy. Mụ cứ ngồi thế mà đăm chiêu, như không chớp mắt, đôi khi, người ta còn nghe thấy mụ nhẩm hát bài gì tha thiết lắm. Gọi thế nào mụ cũng không về trừ khi trời tối không nhìn thấy gì nữa. Thành quen, giờ chẳng ai tìm vì không thấy mụ ở nhà thì đích thị là ở đó rồi. Ba sào ruộng ngay trước mặt là của hợp tác xã phân cho từ cả chục năm trước, giờ dân làng chia nhau ra cấy rồi góp gạo nuôi mụ, chả ai dám tơ hào lấy một hạt. Mụ ngồi đó mỗi chiều như bù nhìn canh ruộng và tưởng tượng ra những điều mà mụ thích, những ý nghĩ có thể níu kéo mụ ngồi suốt ngày này qua tháng khác mà không chán.
“ Mẹ ơi, con đi học về rồi! Cho con xuống cấy mấy!” Tiếng cười giòn tan, tiếng í ới, Tiếng chiếc quần vải đen dày kêu xoạt xoạt khiến đôi tay thoăn thoắt chia mạ tách khóm của mụ phải ngừng lại. Mụ ngẩng lên nhìn về phía ấy. Nó đã xắn cao chiếc quần lùng thùng đến bẹn từ lúc nào. Thằng bé nhất quyết đòi xuống nghịch bùn, bắt ốc, hớt con tép riu …Nó thích thú lắm . Đôi mắt nó sáng lên, cái cười nịnh nọt, tinh nghịch. Mụ không nỡ quát, cũng chẳng kịp quát. Ngẩng lên, nó đã tụt cái cặp trên vai treo lên cái chạc cây xoan nhỏ rồi. Cái áo trắng rộng thùng thình mặc lại của anh con nhà bác cả, nó cởi phăng ra để trốc cái cặp. Giá tụt nốt được cái quần…, nó làm cu cậu lóng ngóng, cái ống xắn cao lắm rồi mà cứ chực tượt xuống làm chân nó ríu lại. Đó là cái quần mụ mua cho nó mặc ngày tựu trường đầu tiên vào lớp vỡ lòng. Mụ tính mua rộng chút để nó lớn là vừa – mà nó như ngày càng còi đi vậy.
Thằng bé mon men bò rồi trượt dần từ cái bờ đê gầy guộc xuống tới chân ruộng. Nó nhổm dậy xuýt xoa cái mông rồi thò chân xuống. Dưới làn nước hâm hấp nóng là lớp bùn mát lạnh nhồn nhột gan bàn chân. Nó thích ra mặt. “ Con ra chỗ mẹ mấy!” “ Cho con cấy mấy!” Con biết cấy mà, dễ mà” …Nó cứ líu lo như thế. Cái chân nhỏ xíu của nó quần khắp một khoảng ruộng, cái lưng trần nhỏ xíu cũng cúi xuống, ngóng lên, khi thì vùi mạ xuống, lúc thì hất nước lên tung tóe, lúc lại khom khom lừa bắt chú cá cờ bơi lạc… Có nó, mụ thấy như hết cả mệt nhọc. Thỉnh thoảng, mỏi lưng, mụ lại ưỡn người lên chống tay ngang hông ngẩng lên ngắm nhìn thằng bé đùa nghịch.
Có lúc mụ cũng vừa hát vừa làm trò họa theo mấy câu giật cục: “Trời nắng, trời nắng, thỏ đi tắm nắng!” Thằng bé thích lắm, cười ngặt nghẽo, trơ ra cái lợi đang nhú hai chiếc răng cửa. Cái cười đáng yêu của nó sao giống bố nó thế! Cái lão đàn ông chân chất, hiền lành, quanh năm đi bỏ ống lươn, lội hết mé sông làng Chùa đến bờ ruộng làng Hạ mà về đến ao làng bị rắn cắn chết, để mụ đứt gánh giữa đường. Mụ cũng cười mà nước mắt nhẹp nhèm. Thằng bé còn không nhớ nổi mặt bố! Mụ yêu thương nó quá!
Liên miên nối theo những hàng mạ thẳng tắp trải đều khắp mặt ruộng, mụ mới giật mình bởi không nghe thấy tiếng thằng nhỏ í ới. Nó lại chơi trò ú tim đây mà. Mụ gọi “Cò ơi!”, mụ gắt lên “ cò ơi”, rồi mụ hốt hoảng gào “Cò ơi!” ! Chỉ nghe tiếng xạc xào của lá cây đan vào nhau bên bờ đê sâm sẩm tối. Mụ ào qua cả ruộng mạ vừa cấy, mụ lội xuồm xuồm như muốn chồm lên cho nhanh để bấu lấy cái bờ đê, để nhìn nhanh sang bên cái ao làng tù đọng ấy. Mụ thốc tới như điên như dại. Mụ lao xuống mặt nước loang loáng những vệt sáng của ngày tàn sắp bị bóng đêm nuốt trọn. Mụ quào cánh tay ôm chặt lấy thằng nhỏ. Nó còn ấm mà. “Mẹ đây con, mẹ đến đây rồi, con không sợ nữa!” Mụ cứ lẩm bẩm mãi như tưởng rằng ngần ấy câu nói của mụ đã dỗ dành cho đứa con ngủ ngon trong bầu ngực ướt sũng của mụ. Mụ truyền hơi ấm sang cho nó, hay nó đang truyền sang cho mụ?
Mụ ẵm con về trong tiếng gào khóc của những người hàng xóm. Mụ cứ tin nó vẫn ngủ ngon trong cái hòm xinh xắn dân làng đóng vội cho nó. Người ta mang thằng bé đi. Mụ ở nhà hát: “Trời nắng, trời nắng, thỏ đi tắm nắng”. Mụ cười giòn tan, rồi mụ nhìn ảnh chồng mà trò chuyện thằng bé yêu mẹ thế này, nhớ bố thế kia, rồi mụ lại đi tìm nó, đi gọi nó về ăn cơm…
Cây xoan triền đê đã vừa người ôm, rễ của nó ăn xiên sang cả mé đê có chiếc ao làng oan nghiệt ấy. Mụ vẫn ngồi hát cho con nghe, đợi chờ nó… Điều kì lạ là người ta nhìn thấy mụ không tiều tụy héo hon bao giờ. Cả trong ánh mắt chờ đợi cũng vẫn ánh lên niềm hi vọng rằng con mụ sẽ trở về. Bóng dáng mụ ngồi đợi con dần dà đã trở thành một phần của cái làng Chùa nhỏ bé. Người ta vẫn thấy cái hạnh phúc trên khuôn mặt mụ, trong những câu hát giật cục mà hóm hỉnh như đang đùa vui với đứa trẻ nào. Họ thấy mụ cười, họ thấy mụ chờ đợi và hi vọng.
Dường như, trong mụ là cả một thế giới riêng tuyệt đẹp, đầy đủ và hạnh phúc. Có lúc nào , khi vướng chuyện đời cơ cực ai đó chẳng lại muốn được trốn vào cái thế giới tâm hồn như thế giới riêng của mụ? Mụ tồn tại như một thực thể độc lập bất chấp mọi đổi thay của thời cuộc. Ruộng lúa người ta đã chia năm xẻ bảy, quán café sang trọng trước mặt mọc lên cũng chẳng ngăn cản mụ sống niềm tin và tình yêu thương thăm thẳm. Những vị khách đơn độc từ đâu đến, họ ngồi hàng giờ nhâm nhi ly café và nhìn ra phía đối diện nơi mụ ngồi mà băn khoăn: “Mụ ngồi đó để làm gì?”

( Khánh Phượng Vũ – Tạp chí Văn học nghệ thuật Ninh Bình – 2021 – Tr. 46)

Dàn ý Trình bày cảm nhận về số phận và vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật mụ trong tác phẩm Miền thương thăm thẳm

Mở bài

  • Giới thiệu truyện ngắn “Miền thương thăm thẳm” và hoàn cảnh sáng tác (nếu cần).
  • Giới thiệu khái quát nhân vật mụ – người phụ nữ có số phận bi kịch và tâm hồn giàu yêu thương.
  • Đặt vấn đề cảm nhận: Tác phẩm khắc họa sâu sắc số phận và vẻ đẹp tâm hồn của mụ – biểu tượng cho tình mẫu tử bất diệt và sức sống nội tâm bền bỉ.

“Miền thương thăm thẳm” là một truyện ngắn mang giọng điệu buồn nhưng dịu dàng, kể về một người đàn bà sống trong thế giới riêng ngập tràn tình yêu và nỗi nhớ. Nhân vật mụ hiện lên như một biểu tượng của nỗi đau mất mát nhưng cũng là hình ảnh đẹp về tình mẫu tử, về sức sống nội tâm mạnh mẽ của một người mẹ. Qua nhân vật này, người đọc cảm nhận rõ cả số phận bi kịch lẫn vẻ đẹp thăm thẳm trong tâm hồn con người.

Thân bài

1. Số phận bất hạnh của nhân vật mụ

  • Từng có tổ ấm giản dị với người chồng hiền lành, đứa con ngoan ngoãn.
  • Chồng mất vì tai nạn bất ngờ, con chết đuối trong ao làng – những biến cố lớn khiến cuộc đời mụ rơi vào trống rỗng.
  • Sống một mình, mụ gắn bó với nơi từng in dấu kỉ niệm với con, hàng ngày ngồi triền đê cũ như canh giữ quá khứ và chờ đợi điều không thể quay lại.
  • Mặc dù ở giữa cộng đồng, mụ sống gần như biệt lập trong nỗi đau riêng nhưng vẫn được dân làng thương yêu, chở che.

2. Vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật mụ

  • Yêu thương con tha thiết, chưa từng nguôi nhớ thương và không thể rời khỏi ký ức về con.
  • Tình mẫu tử trong mụ vượt qua bi kịch – trở thành sức mạnh tinh thần, giúp mụ “tồn tại” trong thế giới của riêng mình.
  • Mụ không vật vã, không điên dại, mà lặng thầm, thủy chung, ấm áp – như vẫn sống trong niềm hạnh phúc không ai nhìn thấy.
  • Niềm tin, sự chờ đợi và giọng hát giật cục của mụ làm người khác vừa xót xa vừa cảm phục.

3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

  • Miêu tả từ góc nhìn của người ngoài – tạo sự bí ẩn và chiều sâu cảm xúc.
  • Hành động lặp lại (ngồi, hát, chờ, gọi con) giàu tính biểu tượng và ám ảnh.
  • Không gian nông thôn bình dị – đối lập với thế giới nội tâm sâu sắc của nhân vật.
  • Giọng văn nhẹ nhàng, có nhịp điệu như một bài dân ca buồn, gợi sự day dứt.

Kết bài

  • Khẳng định mụ là hình ảnh biểu tượng cho người phụ nữ giàu tình cảm, sống vì yêu thương.
  • Qua nhân vật mụ, tác phẩm gợi ra chiều sâu nhân văn về tình mẫu tử, về sự thủy chung với ký ức.
  • Mang lại dư âm thầm lặng nhưng đầy ám ảnh, “Miền thương thăm thẳm” khiến người đọc suy ngẫm về sức sống kì lạ của tình yêu, của niềm tin trong con người.

Nhân vật mụ trong “Miền thương thăm thẳm” là hiện thân của nỗi đau mất mát nhưng cũng là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ Việt Nam: âm thầm, bền bỉ, sống hết mình vì yêu thương. Tác phẩm khiến người đọc không chỉ xúc động trước số phận một người mẹ, mà còn trân trọng hơn những tình cảm thiêng liêng, bền chặt trong cuộc đời. Trong mụ là cả một “miền thương” – sâu không đáy, lặng không lời, nhưng lay động mãi trong tâm trí người đọc.

Bài văn mẫu Trình bày cảm nhận về số phận và vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật mụ trong tác phẩm Miền thương thăm thẳm

Bài văn mẫu 1

Trong thế giới văn chương, đôi khi người ta không chỉ xúc động vì một câu chuyện hay, mà còn vì một ánh nhìn, một dáng ngồi, một nỗi đợi chờ không thể gọi thành tên. Nhân vật mụ trong truyện ngắn “Miền thương thăm thẳm” là một dáng ngồi như thế – lặng lẽ, âm thầm, nhưng khắc sâu trong tâm trí người đọc bởi tình yêu thương quá đỗi mênh mông và sâu thẳm.

Mụ từng có một gia đình bình dị, sống lặng lẽ giữa làng quê yên ả. Mất chồng vì tai nạn bất ngờ, mất con trong một buổi chiều định mệnh, cuộc đời mụ như bị khoét rỗng từ bên trong. Nỗi đau ấy không khiến mụ gào khóc hay nổi loạn. Mụ chọn cách ngồi đó, mỗi ngày, từ chiều cho đến tối, bên gốc cây xoan già, ngóng về phía con đường, phía cánh đồng, phía ao làng – như thể vẫn còn một giọng gọi, một tiếng cười, một dáng hình nhỏ bé đang chờ mụ ở đâu đó.

Nhưng mụ không phải là người tuyệt vọng. Ngược lại, trong mụ là cả một niềm tin bền bỉ. Mụ vẫn hát, vẫn mỉm cười, vẫn trò chuyện như thể thằng bé còn bên cạnh. Mụ giữ con lại bằng tình yêu thương, bằng trí nhớ, bằng cả tâm hồn. Dù đã mất tất cả, mụ vẫn hiện diện đầy đủ trong thế giới riêng – nơi tình mẫu tử chưa bao giờ mất đi.

Không gian trong truyện nhuốm màu buồn: con đê cũ, cây xoan, ao làng tù đọng. Nhưng chính cái buồn ấy lại làm nền cho một tình cảm vĩ đại: tình mẹ. Nguyễn Khánh Phượng đã rất tinh tế khi để cho người kể chuyện là những người ngoài – khách uống café – để họ nhìn thấy mụ từ xa, như một biểu tượng lặng thầm của yêu thương. Nhân vật không lời thoại, không hành động gay gắt, nhưng hiện lên rõ nét bằng những gì im lặng nhất.

Mụ sống trong một thế giới riêng, tưởng như xa rời hiện thực, nhưng lại là tấm gương phản chiếu chân thật nhất về bản năng làm mẹ. Đó là sức sống nội tâm mãnh liệt, là tình thương không điều kiện, là hi vọng không bao giờ lụi tàn. “Miền thương thăm thẳm” khiến người đọc không thể quên – vì trong một nhân vật bé nhỏ ấy, có cả một thế giới đầy yêu thương và lòng thủy chung không gì lay chuyển được.

Bài văn mẫu 2

Có những con người không cần lên tiếng mà vẫn khiến người khác phải lặng người trước những gì họ mang trong lòng. Mụ – nhân vật chính trong “Miền thương thăm thẳm” – là một người như thế. Qua từng dòng văn nhẹ nhàng mà ám ảnh, hình ảnh mụ ngồi triền đê, tựa vào gốc xoan, chờ đợi điều gì không rõ, hiện lên đầy day dứt và ám ảnh.

Cuộc đời mụ là chuỗi dài những mất mát. Chồng mất khi đang đi thả lưới, con mất khi còn nhỏ xíu vì ngã ao làng. Mất cả chỗ dựa và nguồn sống, mụ không gục ngã bằng cách rơi vào tuyệt vọng, mà chọn sống một đời bình lặng, lặp đi lặp lại, như thể giữ cho kí ức vẫn còn sống. Mỗi buổi chiều, mụ ra ngồi nơi con từng chơi, từng té ngã, từng cười vang… Không ai gọi cũng biết mụ ở đó. Như một thói quen, như một phần không thể tách khỏi của mảnh đất làng Chùa ấy.

Trong tâm hồn mụ là cả một thế giới thăm thẳm. Mụ không khô cằn, không hoảng loạn, mà sống bằng hồi ức, bằng yêu thương, bằng niềm tin rằng đứa con vẫn đâu đó quanh mình. Mụ trò chuyện với chồng qua tấm ảnh, gọi con về ăn cơm, cười, hát, và sống như thể chẳng có điều gì vắng mặt. Điều ấy không làm mụ trở nên đáng thương, mà ngược lại, khiến người ta ngưỡng mộ. Vì trong cuộc sống ngổn ngang này, có mấy ai giữ được lòng son như mụ?

Tác phẩm khắc họa nhân vật rất tự nhiên, không cầu kì về cốt truyện, nhưng lại giàu biểu cảm. Không gian làng quê hiện ra vừa gần gũi vừa đầy ẩn dụ. Cây xoan già, con đê cũ, ao làng – tất cả đều mang dấu ấn của mụ và những điều mụ từng có. Cách nhìn từ bên ngoài của người kể chuyện tạo nên cảm giác khách quan, đồng thời khiến nhân vật hiện lên như một biểu tượng của sự thủy chung.

Mụ là một nhân vật không thể quên. Không phải vì số phận, mà vì cách mụ sống sau tất cả. Dù đau đến tận cùng, mụ vẫn giữ được niềm tin, lòng yêu thương, và một thế giới riêng không ai có thể chạm tới. Chính điều đó đã khiến “Miền thương thăm thẳm” trở thành một bản nhạc trầm buồn nhưng đẹp đến lặng người trong lòng người đọc.

Bài văn mẫu 3

Đọc “Miền thương thăm thẳm”, tôi không khỏi day dứt trước hình ảnh một người đàn bà ngồi lặng lẽ bên gốc xoan mỗi chiều. Mụ không ồn ào, không bi lụy, không oán trách. Mụ chỉ ngồi đó, nhìn ra cánh đồng, nhìn về phía con đường cũ mà con trai từng chạy nhảy, cười vang. Một dáng ngồi như hóa đá, nhưng lại mang trong mình cả một dòng chảy xúc cảm không ngừng nghỉ.

Mụ đã từng có tất cả, nhưng rồi lần lượt đánh mất. Người chồng hiền lành chết vì rắn cắn. Đứa con nhỏ – niềm vui duy nhất còn lại – cũng vụt biến mất dưới làn nước ao làng. Mụ như bị đẩy ra khỏi thế giới sống động của thực tại, lặng lẽ rút vào thế giới riêng – nơi kỷ niệm là tất cả. Nhưng điều khiến tôi xúc động không nằm ở mất mát, mà ở cách mụ đối diện với nó.

Không chọn tuyệt vọng, không điên dại, mụ giữ con bằng trí nhớ và trái tim. Mỗi chiều, mụ ra triền đê như canh ruộng, như canh giấc ngủ của con. Mụ hát bài hát con thích, gọi con, trò chuyện với chồng. Mụ như sống song song trong hai thế giới – một thực tại nhiều đổi thay và một miền thương sâu lắng chỉ mình mụ biết. Thế giới ấy không ai xâm phạm được, không thời gian nào bào mòn nổi.

Tác giả khéo léo dẫn dắt người đọc qua góc nhìn của khách lạ – những người ngồi café nhìn ra phía mụ mà ngỡ ngàng. Càng nhìn, họ càng thấm thía. Hình ảnh mụ trở thành một phần không thể thiếu của làng Chùa. Mụ ngồi đó – như tượng đài của tình yêu, của niềm tin không phai mờ. Và họ cũng như tôi, đều tự hỏi: làm sao một con người có thể yêu sâu đến thế?

Nhân vật mụ khiến người ta lặng người. Không cần biện minh, không cần nói nhiều, mụ cho thấy sức mạnh nội tâm của người mẹ – một vẻ đẹp âm thầm mà rực rỡ. “Miền thương thăm thẳm” không chỉ là câu chuyện về mất mát, mà là bài ca về yêu thương, về sự kiên định và bản lĩnh tinh thần phi thường. Một truyện ngắn nhỏ, nhưng dư âm thì ở lại rất lâu.

Yêu thích

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *