Đề bài: Viết bài văn nghị phân tích giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật trong truyện ngắn Lang Rận của nhà văn Nam Cao.
(Lược một đoạn: Ông Cựu đưa thầy lang về chữa bệnh, bà Cựu có cái nhìn đầy dè bỉu, coi thường, bà nhất định không uống thuốc của lang. Cái tên Lang Rận là do bà Cựu và cô Đính đặt)
Anh chàng có cái mặt trông dơ dáng thật. Mặt gì mà nặng chình chĩnh như mặt người phù, da như da con tằm bủng, lại lấm tấm đầy những tàn nhang. Cái trán ngắn ngủn, ngắn ngùn, lại gồ lên. Đôi mắt thì híp lại như mắt lợn sề. Môi rất nở cong lên, bịt gần hai cái lỗ mũi con con, khiến anh ta thở khò khè. Nhưng cũng chưa tệ bằng cái lúc anh cười. Bởi vì lúc anh cười thì cái trán chau chau, đôi mắt đã híp lại híp thêm, hai mí gần như dính tịt lại với nhau, môi càng lớn thêm lên, mà tiếng cười, toàn bằng hơi thở, thoát ra khìn khịt. Trời đất ơi! Cái mặt ấy, dẫu cho mỗi ngày rửa ba lượt xà phòng, bà cựu trông thấy vẫn còn buồn mửa. Huống chi anh chàng lại bẩn gớm, bẩn ghê. Có lẽ mỗi buổi sáng ra cầu ao, anh ta chỉ nhúng mấy ngón tay, rửa độc một tí đầu mũi mà thôi. Mặt anh mốc meo lên. Còn quần áo thì gố ghỉnh, thì đầy dỉ, đứng cách ba thước còn ngửi thấy mùi chua, mà rách rưới, mà mất cúc, mà sứt chỉ, mà lôi thôi lếch thếch. Không hiểu anh ta chỉ có một bộ quần áo hay sao mà từ ngày đến nhà bà đến giờ vẫn chưa thay. Hèn chi mà rận lắm hơn giòi. Chúng bò lổm ngổm ở trên cổ, ở hai vai, ở dưới lưng. Chúng bò lổm ngổm xuống cả cái giường mà anh nằm. Anh ngồi chỗ nào, lúc đứng lên, thế nào cũng có vài chú rận kềnh nằm ngửa, múa máy những cái chân nhỏ li ti, như một người bụng to ngã chổng kềnh, không biết làm thế nào để đứng lên.
(Lược một đoạn: Lang Rận có tính hay chèo bẻo, thích ngồi nghe phụ nữ nói chuyện, thỉnh thoảng chêm vào vài câuthường thuyên bị cô Đính và bà Cựu dè bỉu, đay nghiến)
Mụ Lợi là người ở nhà bà. Không một người đàn bà nào có thể xấu hơn. Mụ béo trục, béo tròn, mặt mũi như tổ ong bầu, mắt trắng, môi thâm mà đen như thằng quỷ. Ở quanh đấy, người ta vẫn lấy tên mụ ra mà dọa trẻ. Hơi trẻ nhà nào khóc, người ta lại bảo: “Nín đi! Nín đi! Mụ Lợi kia kìa!… ”. Thế mà mụ Lợi hiền lành lắm. Phải, hiền lành mà tốt nhịn, bảo sao nghe vậy, thì thế mới ở nhà bà cựu được. Nhưng hồi mới đến, mụ cũng phải cái tật nói leo. Bà cựu mắng như băm, như bổ vào mặt cho, không còn biết mấy mươi lần. Bây giờ thì mụ chừa rồi. Ai cười, ai nói, mặc! Suốt ngày, mụ chỉ im như thóc.
Nhưng nói, trao đổi những ý nghĩ, những nỗi lòng, có lẽ là cái tật chung của loài người. Không được nói thì khổ lắm. Từ ngày có ông lang Rận, những lúc không có ai, mụ Lợi thường lân la nói chuyện với ông.
(Lược một đoạn: Khi biết Lang Rận và mụ Lợi thường xuyên nói chuyện với nhau bị bà Cựu và cô Đính đem nó làm trò cười)
Nhưng cũng lắm lúc mụ lại cứ muốn mãi mãi thế này, một mình làm, một mình ăn, chẳng chồng con gì nữa: đời bạc lắm…
Nhưng có người không bạc, thầy lang ta nghĩ thế. Và thầy nghĩ đến những người vợ thầy: rất bạc. Tại sao những người đàn ông tốt lại cứ hay gặp phải những người đàn bà bạc, còn những người đàn bà không bạc thì lại gặp phải những người đàn ông bạc? Thầy lang Rận bùi ngùi thương thân mình và thương cho người đàn bà phận hẩm. Họ than thở với nhau và phàn nàn cho nhau…
(Lược một đoạn: Bà Cựu và cô Đính thấy Lang Rận vào phòng mụ Lợi liền khoá cửa ngoài, đợi sáng mai ông Cựu về sẽ đi bắt gian và định làm bẽ mặt hai người)
Mụ ngơ ngác nhìn quanh. Và khi trông thấy tình nhân, mụ rú lên. Mụ vật vã người, khóc rống như một con chó chưa quen xích. Tội nghiệp cho con người quá ù lì! Sau khi cãi nhau rồi, mụ lăn ra ngủ thật say. Mụ có ngờ đâu trong lúc ấy thì tình nhân ngồi nghĩ ngợi xa gần. Y thẹn. Y buồn. Y giận đời. Y giận trời. Y giận thân. Y tím ruột, tím gan. Y nghĩ đến cái nhục sáng hôm sau…
Ấy thế rồi y đã bật diêm lên, tìm một cái gì có thể làm một cái dây..
(Nam Cao, trích Lang Rận – NXB Hội nhà văn 1993)
Dàn ý Viết bài văn nghị phân tích giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật trong truyện ngắn Lang Rận của nhà văn Nam Cao
Mở bài:
Giới thiệu tác giả Nam Cao:
- Nhà văn hiện thực và nhân đạo tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn 1930–1945.
- Thường viết về những con người nhỏ bé, nghèo khổ, bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Giới thiệu truyện ngắn “Lang Rận”:
- Là một trong những truyện ngắn tiêu biểu thể hiện cái nhìn trào phúng, chua xót mà đầy thấu hiểu của Nam Cao với những phận người sống lay lắt, mất phương hướng trong xã hội thực dân phong kiến.
Dẫn vào vấn đề nghị luận:
- Truyện ngắn không chỉ mang giá trị hiện thực sâu sắc mà còn có giá trị nghệ thuật đặc biệt, thể hiện rõ phong cách văn chương và tư tưởng nhân đạo của Nam Cao.
Nam Cao – cây bút hiện thực và nhân đạo tiêu biểu giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám – luôn khiến người đọc ám ảnh bởi những trang viết thấm đẫm nỗi đau con người. Trong số những truyện ngắn đặc sắc của ông, “Lang Rận” tuy ít được nhắc đến hơn các tác phẩm như “Chí Phèo” hay “Lão Hạc”, nhưng lại mang trong mình một sức nặng đặc biệt. Đây là câu chuyện về một ông lang dởm, sống lay lắt bên rìa xã hội, vừa gây cười chua chát, vừa khiến người ta phải ngẫm nghĩ. Bằng ngòi bút sắc sảo và nghệ thuật trào phúng đặc biệt, Nam Cao đã thể hiện sinh động thân phận con người bé nhỏ trong xã hội mục nát đương thời, đồng thời khắc họa một cách thấm thía bi kịch tha hóa và sự tàn nhẫn của cái nghèo, cái dốt và sự bế tắc.
Thân bài:
– Giá trị nội dung:
- “Lang Rận” là một bức tranh hiện thực sâu sắc về một xã hội mà những kẻ “sống mòn” vật vờ trong cảnh nghèo túng, lừa lọc lẫn nhau để tồn tại. Ông lang Rận – một “lang băm” đúng nghĩa – không hề có y thuật, sống bám víu vào chút danh hão và những đơn thuốc đầy tính may rủi. Ông sống giữa cái nghèo, cái đói, cái nhục và cái mánh khóe, đại diện cho một tầng lớp dưới đáy xã hội – những người không có địa vị, không có tiếng nói và cũng chẳng còn nhân phẩm trọn vẹn.
- Nam Cao không chỉ dừng lại ở việc phê phán lối sống lươn lẹo, giả dối, mà sâu xa hơn, ông còn muốn gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về một xã hội đã quá khắc nghiệt, đẩy con người đến mức phải đánh mất cả lòng tự trọng để tồn tại. Qua nhân vật lang Rận, ta thấy rõ một điều: có những kẻ trở nên hèn hạ không phải vì họ xấu xa ngay từ đầu, mà bởi cái nghèo đã bào mòn họ từng chút một, khiến họ sống trong giả tạo, thậm chí tin vào sự giả tạo đó như một lẽ sống duy nhất.
- Tác phẩm cũng thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Dù phê phán, giễu cợt, nhưng Nam Cao không tuyệt tình. Người đọc vẫn cảm nhận được sự xót xa của nhà văn trước những phận người bé nhỏ, bị lãng quên giữa xã hội chật hẹp, lạnh lùng. Lang Rận – trong dáng vẻ nhếch nhác, tủi hổ – vẫn là một con người biết đau, biết nhục, và vì thế vẫn khiến ta day dứt.
– Giá trị nghệ thuật:
- Truyện ngắn “Lang Rận” thành công nổi bật ở nghệ thuật trào phúng và xây dựng nhân vật. Nam Cao không đả kích một cách gay gắt hay lên án trực diện, mà lựa chọn cách viết châm biếm nhẹ nhàng, đôi khi lạnh lùng mà vẫn khiến người đọc bật cười nghẹn ngào. Chân dung ông lang Rận được khắc họa sống động từ ngoại hình, cử chỉ, giọng nói đến những suy nghĩ nhỏ nhặt, đầy mâu thuẫn và tự huyễn hoặc. Chính lối miêu tả chân thực, không chút che đậy ấy đã làm nổi bật sự lố bịch và đáng thương của nhân vật.
- Nam Cao sử dụng ngôn ngữ gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày, giản dị nhưng rất giàu sức gợi. Ông viết như đang kể lại câu chuyện của một kẻ mà ông từng gặp, từng chứng kiến – điều này tạo nên chất hiện thực rất đặc trưng trong văn chương của ông. Bên cạnh đó, việc sắp xếp tình huống truyện hợp lý, tăng dần kịch tính theo tâm lí nhân vật, giúp người đọc đi từ cười đến xót, từ giễu cợt đến suy tư.
- Không cần cốt truyện phức tạp, chỉ bằng vài trang giấy, Nam Cao đã dựng nên cả một bi kịch sống động về thân phận con người thời trước cách mạng. Chính sự dung dị ấy khiến tác phẩm có chiều sâu và sức lay động lâu dài.
Kết bài:
Khẳng định lại giá trị của tác phẩm:
- “Lang Rận” là một truyện ngắn mang đậm tinh thần phê phán xã hội, nhưng vẫn thấm đẫm lòng trắc ẩn với những con người cùng khổ.
Đánh giá phong cách nghệ thuật của Nam Cao:
- Kết hợp giọng điệu trào phúng với lối miêu tả chân thực và sâu sắc.
- Biết nhìn thấy cái đau đớn phía sau tiếng cười, cái đáng thương ẩn trong cái đáng trách.
Mở rộng liên hệ và cảm nhận cá nhân:
- Tác phẩm không chỉ có giá trị ở thời điểm ra đời mà còn gợi suy nghĩ cho người đọc hôm nay về cách sống, về sự tử tế và nhân văn trong đối mặt với những nghịch cảnh của đời sống.
“Lang Rận” là một trong những truyện ngắn thể hiện rõ tài năng và tấm lòng của Nam Cao. Dưới lớp vỏ trào phúng là một cái nhìn đầy trắc ẩn dành cho những số phận mong manh bị thời cuộc nghiền nát. Tác phẩm không chỉ có giá trị phê phán xã hội mà còn là lời nhắc nhở về nhân cách, về lối sống, về cách con người đối diện với cái đói, cái nghèo và sự thật trần trụi của đời sống. Đọc “Lang Rận”, ta hiểu thêm vì sao Nam Cao được xem là người đi trước thời đại – một nhà văn luôn biết đau với cái đau của người khác, và biến những nỗi đau ấy thành những dòng văn còn mãi với thời gian.
Bài văn mẫu Viết bài văn nghị phân tích giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật trong truyện ngắn Lang Rận của nhà văn Nam Cao
Bài văn mẫu số 1
Tố Hữu từng viết: “Văn học thực chất là cuộc đời… Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi đến của văn học.” Với Nam Cao, cuộc đời ấy là những số phận bé nhỏ, bị vùi dập dưới đáy xã hội, những con người tưởng chừng rẻ rúm nhưng lại mang trong mình một nỗi đau rất thật, rất người. Đọc truyện ngắn “Lang Rận”, người ta không chỉ xót xa cho một kiếp người, mà còn xót xa cho cả một thời đại tăm tối – nơi mà nhân phẩm con người có thể bị bóp nghẹt bởi định kiến và cái nhìn hẹp hòi của kẻ bề trên.
Lang Rận – một nhân vật vừa buồn cười vừa tội nghiệp – là hình ảnh đầy chân thực về những con người sống mòn, sống ké, sống bấu víu vào từng ngọn gió nhỏ của hy vọng. Hắn bẩn, rách rưới, đến mức người ta nhớ đến hắn là nhớ đến lũ rận bò lúc nhúc trên quần áo. Nhưng điều khiến hắn bị khinh rẻ không chỉ là ngoại hình, mà còn là thân phận – một kẻ không nhà, không chốn, chỉ sống nhờ lòng thương hại của người khác. Khi ông Đậu đưa hắn về nhà, không ai nghĩ đó là một nghĩa cử. Đó chỉ là toan tính ích kỷ của một người đàn ông muốn có con, còn bà Đậu thì nhất quyết từ chối “thằng lang rận gớm ghiếc ấy”.
Giữa nơi mà sự khinh rẻ là thước đo giá trị con người, Lang Rận vẫn mơ hồ cảm thấy mình được sống, được yêu – nhờ vào sự dịu dàng, quan tâm của mụ Lợi. Cái vá áo, cái ánh nhìn cảm thông từ mụ khiến hắn thắp lên tia hy vọng. Họ không nói lời yêu nhưng tình cảm ấy đã thành hình, đã đủ để khiến cả hai muốn sống vì nhau. Nhưng đời chẳng bao giờ êm đềm với kẻ nghèo. Khi tình yêu ấy bị phát hiện, nó không được nhìn như một thứ đáng trân trọng mà trở thành trò cười cho bà chủ và cô em gái nhà giàu. Nụ cười họ dành cho hắn và mụ Lợi là nụ cười cay nghiệt – một kiểu khinh thường pha lẫn ranh mãnh, một sự hả hê khi được vạch trần kẻ “thấp hèn” dám mơ đến điều không dành cho mình.
Cái chết của Lang Rận là để giữ lại chút phẩm giá cuối cùng của mình. Treo cổ bằng cái ruột tượng của người mình thương – một chi tiết đau đớn đến nghẹn lòng – như thể hắn muốn ôm lấy chút tình cảm nhỏ nhoi kia trước khi rời khỏi một thế giới quá tàn nhẫn. Và cái chết ấy chính là lời kết buồn cho một câu chuyện không có anh hùng, không có kẻ xấu, chỉ có những con người nhỏ bé bị cuốn trôi giữa dòng đời khắc nghiệt.
Nghệ thuật của Nam Cao trong “Lang Rận” không nằm ở cốt truyện cầu kỳ mà ở cách ông để nhân vật tự sống, tự nói bằng hành động, bằng cả cái chết. Giọng văn tưởng như lạnh lùng mà lại thấm thía. Cách miêu tả nhân vật không né tránh, không nhân nhượng – từ chi tiết con rận, mùi hôi, sự ghê tởm – đều rất thật, rất táo bạo. Ông khiến người đọc phải đối diện với sự khốn cùng chứ không né tránh nó. Ấn tượng hơn cả là lối viết trào phúng kín đáo, khiến người đọc vừa cười đó, lại thấy nghẹn sau đó – một kiểu giễu cợt mà đầy trắc ẩn.
Bài văn mẫu số 2
Nam Cao luôn có một cách rất riêng để chạm vào lòng người. Ông không kể chuyện bằng những dòng cảm thán sướt mướt, mà để nhân vật của mình tự sống, tự đau và tự đối diện với bi kịch. Trong “Lang Rận”, cái chết của nhân vật chính không làm người đọc sợ hãi mà khiến ta nghẹn lại – bởi ta hiểu, đằng sau cái chết ấy là tiếng kêu không thành lời của một kẻ đã quá mỏi mệt với kiếp sống tủi nhục.
Truyện bắt đầu bằng một tình huống đơn giản: một ông lang nghèo được ông Đậu đưa về nhà chữa bệnh. Nhưng từ những trang đầu tiên, Nam Cao đã gieo vào lòng người đọc một nỗi bứt rứt khó chịu. Cái bẩn, cái rận, cái nhếch nhác của Lang Rận được miêu tả tỉ mỉ, như một cách để dội thẳng vào người đọc sự thật trần trụi về một lớp người bị bỏ quên. Bà Đậu – một phụ nữ vốn chẳng ác – cũng không thể giấu nổi vẻ khinh ghét. Không ai muốn ở gần Lang Rận, không phải vì hắn ác, mà vì hắn “ghê tởm”.
Ấy vậy mà mụ Lợi lại nhìn hắn bằng một ánh nhìn khác. Trong thế giới của mụ – cũng là người hầu kẻ hạ – Lang Rận không phải kẻ thấp hèn hơn. Họ giống nhau ở sự cô đơn, ở sự thiếu thốn tình cảm, ở nỗi khao khát được công nhận như một con người bình thường. Tình cảm giữa hai người hình thành không cần lời nói. Một ánh nhìn, một cái vá áo cũng đủ để chạm đến tim nhau. Nhưng rồi cũng chính ngôi nhà ấy, những bức tường ấy đã không che chắn nổi cho một mối tình mong manh.
Người ta cười. Họ rình, họ chờ đợi như chờ một trò tiêu khiển. Họ không nghĩ rằng, trong cuộc “bắt gian” ấy, sẽ có một con người chọn cách kết thúc đời mình. Cái chết đến nhẹ tênh, như một lời từ chối sống trong thế giới không còn chỗ cho lòng tự trọng. Lang Rận chết vì quá đau, nhưng cũng vì muốn giữ lại một chút nhân cách. Cái chết của hắn là lời tố cáo cay đắng nhất dành cho một xã hội coi thường người nghèo, một xã hội tưởng như có đạo lý nhưng lại sẵn sàng bật cười trên nỗi đau kẻ khác.
Có lẽ điều làm nên sức sống cho “Lang Rận” chính là cách Nam Cao kể lại mọi chuyện bằng giọng điệu thản nhiên đến lạnh gáy. Không lên gân bi lụy, không kêu gọi thương hại, ông để người đọc tự nhìn thấy sự phi lý đến mức tàn nhẫn của đời sống. Ngôn ngữ của truyện gần với lời nói thường ngày, giản dị mà có sức nặng. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là điểm đáng nói: Lang Rận hiện lên sống động từ dáng vẻ cho đến suy nghĩ – một hình hài kỳ dị ẩn chứa cả một nỗi cô độc lớn. Và hơn hết, nghệ thuật trào phúng – một mũi dao sắc – được sử dụng vừa đủ để không khiến người ta chỉ cười, mà còn phải nghĩ.
Bài văn mẫu số 3
Có những truyện ngắn khiến người đọc phải quay lại nhiều lần không phải vì nó khó hiểu, mà vì nó day dứt. “Lang Rận” là một tác phẩm như thế. Với Nam Cao, những mảnh đời tưởng chừng nhỏ nhoi, hèn mọn lại luôn là chất liệu quý giá nhất để ông phơi bày hiện thực và lay động trái tim bạn đọc.
Lang Rận là một nhân vật có thể khiến người ta cười. Cái tên đã đủ gây ấn tượng: rận – loài vật bẩn thỉu, đáng ghét, gắn liền với sự khốn khó và nhếch nhác. Nhưng khi đọc hết truyện, cái cười ấy sẽ nhanh chóng nhường chỗ cho sự ngậm ngùi. Lang Rận không phải kẻ xấu. Hắn chỉ là người nghèo – một kẻ hành nghề bốc thuốc dạo, bị khinh rẻ đến mức cả ngôi nhà nơi hắn ở tạm cũng chẳng muốn dung chứa hắn.
Sự xuất hiện của mụ Lợi là bước ngoặt trong cuộc sống của Lang Rận. Lần đầu tiên, hắn được ai đó đối xử như một con người. Sự quan tâm, tình cảm giản dị mà mụ Lợi dành cho hắn đã khiến hắn thay đổi – từ một kẻ sống lay lắt trở thành người khao khát sống, khao khát được yêu. Nhưng xã hội ấy không chấp nhận chuyện một “mụ hầu” yêu một “thằng lang băm rận rệp”. Cái nhìn từ bà Đậu và cô Đính là hiện thân của sự mỉa mai, của lối tư duy phân biệt giai cấp gay gắt. Khi hai người đàn bà ấy khóa cửa bếp để “bắt quả tang”, họ không ngờ mình đã đẩy một sinh mạng đến đường cùng.
Cái chết của Lang Rận không được mô tả bằng những dòng văn bi lụy. Nó đến bất ngờ, lạnh lùng. Nhưng chính sự lạnh lùng ấy lại khiến người ta nhói tim. Hắn chết không phải vì hết yêu, mà vì không còn đường sống. Hắn không thể chịu đựng thêm một ngày nào nữa khi thấy mình bị xem thường, bị rình rập, bị xâm phạm đến tận cùng nhân phẩm.
Nếu phải nói về điểm đặc biệt trong nghệ thuật của Nam Cao, có lẽ đó là khả năng làm cho những điều nhỏ nhặt nhất trở nên có sức lay động. Ông không tô vẽ nhân vật bằng ánh sáng lung linh mà để họ hiện ra chân thực, trần trụi. Cách ông dựng hình Lang Rận không hề né tránh cái ghê tởm, mà chính nhờ đó, ông buộc người đọc phải đối diện với sự thật. Giọng kể khách quan, lạnh lùng như thể không dính líu gì, nhưng càng đọc lại càng cảm thấy đau – đó chính là tài. Ông giễu nhại nhưng không nhẫn tâm, phê phán nhưng không phủ nhận giá trị làm người. Nghệ thuật ấy chính là một dạng lặng thầm nhưng sắc bén – một đặc sản trong văn chương Nam Cao.