📘 Tải 100+ tài liệu nghị luận văn học, 100+ đề thi học sinh giỏi ... chỉ 1 Click

Phân tích bài thơ Bà Má Hậu Giang của Tố Hữu

Đề bài: Phân tích bài thơ Bà Má Hậu Giang của Tố Hữu

BÀ MÁ HẬU GIANG
(Tố Hữu)
Trời Hậu Giang, tù và dậy rúc
Phèn la kêu, trống giục vang đồng
Đường quê đỏ rực cờ hồng
Giáo gươm sáng đất, tầm vông nhọn trời
Quyết một trận, quét đời nô lệ
Quăng máu xương, phá bẻ xiềng gông!
Hỡi ôi! Việc chửa thành công Hôm nay máu chảy đỏ đồng Hậu Giang Giặc lùng, giặc đốt xóm làng
Xác xơ cây cỏ, tan hoang cửa nhà
Một vùng trắng bãi tha ma
Lặng im, không một tiếng gà gáy trưa.
Có ai biết, ai ngờ trong đó
Còn chơ vơ một ổ lều con
Đạn bom qua, hãy sống còn
Núp sau lưng rộng một hòn đá to.
Có ai biết trong tro còn lửa
Một má già lần lữa không đi
Ở đây sóng gió bất kỳ
Má ơi, má ở làm chi một mình?
Rừng một dải U Minh tối sớm
Má lom khom đi lượm củi khô
Ngày đêm củi chất bên lò
Ai hay má cất củi khô làm gì?
Hay má lẫn quên vì tuổi tác
Hay má liều một thác cho yên?
Bỗng đâu một buổi mai lên
Trên đường quê ấy, qua miền nghĩa quân
Một toán quỷ rầm rầm rộ rộ
Mắt mèo hoang, mũi chó, râu dê
Súng trường nhọn hoắt lưỡi lê
Khét nồng khí chết, tanh dề máu oan!
Chúng rảo bước. Lính quan nện gót
Mắt nhìn quanh lục mót dạng người
Đồng không, lạnh vắng, im hơi
Chỉ đôi bóng quạ ngang trời loáng qua
Ách-là! Thằng quan ba dừng bước
Rút ống dòm, và ngước mắt nheo
Xa xa, sau lớp nhà xiêu
Một tia khói nhỏ ngoằn ngoèo bay lên…
Hắn khoái trá cười điên sằng sặc
Nhe hàm răng sáng quắc như gươm
Vẫy tay lũ tớ gườm gườm
Như bầy chó đói chực chồm miếng ăn.
Rồi lặng lặng bước chân hùm sói
Tiến dần lên tia khói, vây quanh…
Má già trong túp lều tranh
Ngồi bên bếp lửa, đun cành củi khô
Một mình má, một nồi to
Cơm vừa chín tới, vùi tro, má cười…
Chết! Có tiếng gì rơi sột soạt?
Má già run, trán toát mồ hôi
Chạy đâu? Thôi chết, chết rồi!
Gót giày đâu đã đạp rơi liếp mành.
Một thằng cướp, mắt xanh mũi lõ
Đốc gươm dài tuốt vỏ cầm tay
Rung rinh bậc cửa tre gầy
Nghênh ngang một ống chân đầy lối đi!
Hắn rướn cổ, giương mi, trợn mắt
Như hổ mang chợt bắt được mồi
Trừng trừng trông ngược trông xuôi
Trông vào bếp lửa: Một nồi cơm to.
Hắn rống hét: “Con bò cái chết!
Một mình mày ăn hết này sao?
Đừng hòng che được mắt tao
Khai mau, du kích ra vào nơi đâu?
Khai mau, tao chém mất đầu!”
Má già lẩy bẩy như tàu chuối khô
Má ngã xuống bên lò bếp đỏ
Thằng giặc kia đứng ngõ trừng trừng
Má già nhắm mắt, rưng rưng
“Các con ơi, ở trong rừng U Minh Má có chết, một mình má chết
Cho các con trừ hết quân Tây!”
Thằng kia bỗng giậm gót giày
Đạp lên đầu má: “Mẹ mày, nói không?”
Lưỡi gươm lạnh toát kề hông
“Các con ơi! Má quyết không khai nào!”
Sức đâu như ngọn sóng trào
Má già đứng dậy, ngó vào thằng
Tây Má hét lớn: “Tụi bay đồ chó!
Cướp nước tao, cắt cổ dân tao!
Tao già không sức cầm dao
Giết bay, có các con tao trăm vùng!
Con tao, gan dạ anh hùng
Như rừng đước mạnh, như rừng tràm thơm!
Thân tao chết, dạ chẳng sờn!”
Thương ôi! Lời má lưỡi gươm cắt rồi!
Một dòng máu đỏ lên trời
Má ơi, con đã nghe lời má kêu!
Nước non muôn quý ngàn yêu
Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang.
(Tố Hữu, Từ ấy, NXB Văn học, 1959)

Dàn ý Phân tích bài thơ Bà Má Hậu Giang của Tố Hữu

Mở bài
– Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học cách mạng Việt Nam, với phong cách thơ trữ tình chính trị sâu sắc và giàu cảm xúc.
– Trong hành trình sáng tác của ông, bài thơ “Bà Má Hậu Giang” nổi bật với hình tượng người mẹ Nam Bộ kiên cường, bất khuất giữa khói lửa chiến tranh.
– Bài thơ được viết trong hoàn cảnh kháng chiến chống Pháp đang diễn ra ác liệt, là khúc tráng ca ca ngợi tinh thần anh hùng, lòng yêu nước và sự hy sinh cao cả của nhân dân miền Nam, đặc biệt là hình ảnh bà má Hậu Giang – biểu tượng của khí phách Việt Nam.

Với “Bà Má Hậu Giang”, Tố Hữu không chỉ dựng lên chân dung một người mẹ Việt Nam gan góc, mà còn khắc sâu vào lòng người đọc hình ảnh đẹp đẽ của phẩm chất dân tộc trong những năm tháng đấu tranh đầy máu lửa. Qua lối kể chuyện giản dị nhưng giàu cảm xúc, nhà thơ đã để lại một bài ca thấm đẫm khí phách anh hùng và tình thương vô hạn. Hình ảnh bà má – giữa hoang tàn vẫn nhóm lửa, trước họng súng vẫn ngẩng đầu – mãi mãi là biểu tượng của lòng trung trinh, bất khuất. Bài thơ không chỉ là lời tri ân một con người,

Thân bài
1. – Khung cảnh vùng đất Hậu Giang trong kháng chiến:
+ Tác phẩm mở ra bằng hình ảnh một vùng sông nước Hậu Giang sục sôi khí thế đấu tranh, nơi mà mỗi tiếng tù và, mỗi nhịp trống như thúc giục người dân đứng dậy bảo vệ quê hương.
+ Những hình ảnh như “tù và”, “phèn la”, “cờ hồng”, “giáo gươm”… tạo nên một bức tranh rực lửa, cho thấy sự đồng lòng, tinh thần kháng chiến mạnh mẽ của người dân miền Nam trong thời kỳ gian khó.
+ Hậu Giang hiện lên như một biểu tượng của tinh thần bất khuất không khuất phục trước kẻ thù.

2. – Cảnh hoang tàn sau cuộc càn quét của giặc:
+ Không gian bị nhuộm màu thê lương sau khi quân Pháp tràn vào, thiêu rụi làng mạc, cướp đi sự sống và để lại nỗi đau khôn nguôi.
+ Những hình ảnh như “cây cỏ xác xơ”, “cửa nhà tan hoang”, “bãi tha ma trắng xóa” vừa cụ thể vừa gợi cảm, tái hiện sự đổ nát đến cùng cực của một vùng quê sau chiến tranh.
+ Tiếng gà không còn gáy, sự im lặng ghê rợn bao trùm tất cả – như một khoảng lặng tang thương giữa những hồi trống kháng chiến.

3. – Hình ảnh bà má Hậu Giang – người phụ nữ Việt Nam kiên trung:
+ Giữa vùng đất hoang tàn ấy, bà má Hậu Giang vẫn còn sống, lặng lẽ trong túp lều nhỏ – hình ảnh gợi nên sự kiên trì, gan dạ giữa lằn ranh sinh tử.
+ Bà má vẫn nhóm bếp, lượm củi, sống sót như một cây cỏ dại nhưng không bao giờ cúi đầu.
+ Dù trong lòng có chút hoang mang, lo lắng, nhưng bà má vẫn giữ vững niềm tin, tuyệt đối không rời bỏ mảnh đất quê hương thân yêu.

4. – Cuộc chạm trán căng thẳng với kẻ thù:
+ Hình ảnh kẻ thù được khắc họa bằng lối miêu tả sắc sảo: “mắt mèo hoang”, “mũi chó”, “râu dê”, súng lưỡi lê… – vừa hiện thực vừa mang màu sắc phúng dụ, làm nổi bật sự hung bạo và dã man của quân xâm lược.
+ Chúng lùng sục từng căn nhà, và cuối cùng phát hiện ra túp lều nơi bà má ở.
+ Dù bị tra khảo, đe dọa đến tính mạng, bà má vẫn một lòng trung thành, quyết không khai báo – như một bức tường thành bất khuất, đơn độc mà kiên cường.

5. – Sự hy sinh đầy bi tráng của bà má:
+ Những lời cuối cùng của bà má vang lên như tiếng chuông cảnh tỉnh, như bản tuyên ngôn của lòng yêu nước cháy bỏng.
+ Dù bị giặc giết hại, hình ảnh bà má Hậu Giang vẫn sống mãi trong tâm trí người đọc với sự ngưỡng mộ sâu sắc về khí chất và tấm lòng son sắt với Tổ quốc.
+ Sự hy sinh ấy không chỉ là nỗi đau, mà còn là ngọn lửa truyền lửa, là biểu tượng của lòng yêu nước thầm lặng mà vĩ đại của người mẹ Việt Nam trong kháng chiến.

Kết bài
– “Bà Má Hậu Giang” không chỉ là một bài thơ mang tính tự sự hay kể chuyện, mà còn là bản hùng ca bất tử về lòng yêu nước, sự kiên trung của người phụ nữ Việt trong kháng chiến.
– Tố Hữu bằng giọng thơ giàu nhạc điệu và hình tượng sâu sắc đã dựng nên chân dung một người mẹ – một biểu tượng bất diệt cho tinh thần chiến đấu không lùi bước.
– Bài thơ là minh chứng sống động cho sức mạnh tinh thần của dân tộc ta, và hình ảnh bà má Hậu Giang sẽ mãi là ngọn đèn sáng dẫn đường cho thế hệ hôm nay và mai sau trong hành trình giữ gìn và bảo vệ Tổ quốc.

Tố Hữu là một trong những gương mặt lớn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, người đã dùng ngôn ngữ của trái tim để viết nên những bản anh hùng ca thấm đẫm tình dân, nghĩa nước. Trong số những thi phẩm tiêu biểu của ông, bài thơ “Bà Má Hậu Giang” nổi bật như một tượng đài cảm xúc, ghi dấu hình ảnh người mẹ Nam Bộ kiên cường giữa những ngày lửa đạn. Được sáng tác trong hoàn cảnh kháng chiến chống thực dân Pháp, bài thơ không chỉ khắc họa chân dung một con người cụ thể, mà còn là tiếng nói hào sảng của một dân tộc bất khuất, lấy tình thương và lòng yêu nước làm vũ khí. Qua đó, Tố Hữu gửi gắm trọn vẹn niềm tin vào sức mạnh tinh thần của nhân dân – đặc biệt là những người mẹ bình dị mà phi thường nơi tuyến lửa miền Nam.

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Bà Má Hậu Giang của Tố Hữu

Phân tích vẻ đẹp hình ảnh bà má Hậu Giang trong tám câu thơ cuối

Bà má Hậu Giang hiện lên trong tám câu thơ cuối là hiện thân sống động của người mẹ Việt Nam kiên cường, bất khuất. Dù bị tra tấn, bị đạp lên đầu, dù lưỡi gươm kề bên hông, bà vẫn một lòng quyết không khai. Trong cơn đau đớn, bà má lại vùng dậy, hét lớn những lời căm thù: “Tụi bay đồ chó! Cướp nước tao, cắt cổ dân tao!”. Những lời lẽ ấy không chỉ là tiếng nói của một cá nhân mà là tiếng gào thét thay cho bao kiếp người mất nước. Hành động “đứng dậy, ngó vào thằng Tây” như thể hiện một sức mạnh trỗi dậy từ cội nguồn, không dễ gì khuất phục. Bà má tin tưởng vào con cháu – những người anh hùng sẽ thay bà tiếp tục chiến đấu. Hình ảnh ấy được nâng lên thành biểu tượng thiêng liêng về người mẹ Việt Nam trong kháng chiến: già nhưng không yếu, không dao gươm nhưng có trái tim thép và tinh thần bất khuất. Đoạn thơ, với giọng điệu hùng tráng xen lẫn xúc động, thể hiện rõ niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ về vẻ đẹp của người mẹ Hậu Giang – một biểu tượng bất tử của dân tộc.

Phân tích bài thơ Bà Má Hậu Giang của Tố Hữu

Lập dàn ý

Mở bài:

– Giới thiệu về tác giả Tố Hữu.

– Giới thiệu khái quát về bài thơ “Bà má Hậu Giang” và nêu khái quát ấn tượng chung về bài thơ.

Thân bài:

2.1. Khái quát:

Bài thơ “Bà má Hậu Giang” viết năm 1941, in trong tập “Xiềng xích”. Đây là thời kì đất nước còn chìm đắm trong đêm đen nô lệ, dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Bài thơ ca ngợi người mẹ miền sông Hậu kiên gan trước họng súng quân thù, quyết nuôi, giúp đỡ những người cách mạng.

Luận điểm 1: Phân tích nội dung chủ đề của bài thơ:

* Bài thơ khái quát phong trào đấu tranh của nhân dân Hậu Giang trước cách mạng tháng Tám 1945. 

+ Khổ thơ thứ nhất: Khí thế sục sôi chiến đấu, quyết tâm đánh đuổi giặc Pháp, lật đổ chế độ thực dân nửa phong kiến đang kìm kẹp, bóc lột người dân: Trời Hậu Giang, tù và dậy rúc

Phèn la kêu, trống giục vang đồng

Đường quê đỏ rực cờ hồng

Giáo gươm sáng đất, tầm vông nhọn trời

Quyết một trận, quét đời nô lệ

Quăng máu xương, phá bẻ xiềng gông!

– Biện pháp liệt kê tù và dậy rúc, phèn la kêu, trống giục vang đồng, … kết hợp với hình ảnh Đường quê đỏ rực cờ hồng đã gợi ra khí thế cách mạng sục sôi ở mảnh đất Hậu Giang. Cờ hồng là lá cờ đỏ sao vàng của Việt minh, là biểu tượng cho khát vọng độc lập tự do của cả dân tộc.

– Hàng loạt những cụm động từ mạnh như quét đời nô lệ, quăng máu xương, phá bẻ xiềng gông phản ánh quyết tâm đấu tranh, bất chấp hi sinh cả máu xương, tính mạng để quét đời nô lệ của người dân Hậu Giang nói riêng, nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ nói chung.

– Biện pháp đối trong câu thơ bát: Giáo gươm sáng đất, tầm vông nhọn trời vừa tạo sự hài hoà, đăng đối trong diễn đạt, vừa cho biết những vũ khí thô sơ được nhân dân ta sử dụng để quyết một trận với quân thù.

-> Khổ thơ đầu, từ cảm hứng lịch sử hào hùng, với giọng thơ dồn dập, sục sôi khí thế, nhà thơ Tố Hữu đã tái hiện một cách chân thực mà giàu sức gợi về phong trào đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản những năm trước cách mạng tháng Tám.

NLVH Trình bày cảm nghĩ về bài thơ Bàn giao của nhà thơ Vũ Quần Phương

+ Khổ thơ thứ hai: Kết quả của phong trào đấu tranh:

Hỡi ôi! Việc chửa thành công

Lặng im, không một tiếng gà gáy trưa.

– Phong trào cách mạng những ngày đầu vì còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm nên các cuộc khởi lần lượt bị thực dân Pháp dìm trong bể máu. Câu văn đầu như một lời than đầy đau xót Hỡi ôi! Việc chửa thành công.

– Những hình ảnh tố cáo tội ác đuổi cùng giết tận của kẻ thù Giặc lùng, giặc đốt xóm làng thể hiện rõ sự căm phẫn, thái độ phê phán, lên án gay gắt đối với kẻ cướp nước.

– Bên cạnh đó là hàng loạt những hình ảnh gợi ra sự điêu linh, khốn cùng của quê hương, làng mạc dưới sự truy lùng ráo riết của giặc. Con người thì bị lùng bắt, giết hại không thương tiếc máu chảy đỏ đồng Hậu Giang. Cảnh vật thì xơ xác, tiêu điều không còn sự sống xác xơ cây cỏ, tan hoang cửa nhà. Nhịp sinh hoạt của làng quê như bị đảo lộn hoàn toàn lặng im, không một tiếng gà gáy trưa. Tất cả dường như không còn dấu vết của sự sống, mà chỉ còn chết chóc, tang thương một vùng trắng bãi tha ma.

-> Đến đây, nhịp thơ như chậm lại, giọng điệu nức nở, nghẹn ngào đầy xót xa, đau đớn trước sự thất bại, trước những mất mát, đau thương mà con người và quê hương phải gánh chịu. Đồng thời là tiếng nói tố cáo mạnh mẽ, đanh thép tội ác của thực dân Pháp xâm lược.

* Bài thơ ngợi ca tấm lòng yêu nước, tinh thần quả cảm, bất khuất sẵn sàng hi sinh vì cách mạng của bà má Hậu Giang.

+ Khổ thơ thứ ba: giữa đau thương, đổ nát điêu tàn, sự sống hiện ra và nhen nên niềm tin hi vọng qua căn lều và hình ảnh người má Hậu Giang: Có ai biết, ai ngờ trong đó

Còn chơ vơ một ổ lều con

Hay má liều một thác cho yên?

– Những dòng thơ đậm chất tự sự cho thấy sự kiên cường, bất khuất trước mọi tàn phá, giết chóc của kẻ thù: Còn chơ vơ một ổ lều con – Đạn bom qua, hãy sống còn –

Núp sau lưng rộng một hòn đá to. Và sự xuất hiện của người má Hậu Giang là hiện thân của sự sống bất diệt của con người Việt Nam. Người má sống lủi thủi một mình giữa rừng U Minh, sớm tối làm công việc gom củi: Má lom khom đi lượm củi khô – Ngày đêm củi chất bên lò. Những câu hỏi cuối khổ thơ gợi bao nỗi băn khoăn:

Ngày đêm củi chất bên lò

Ai hay má cất củi khô làm gì?

Hay má lẫn quên vì tuổi tác

Hay má liều một thác cho yên?

Má sống đơn độc một mình nơi núi rừng heo hút, vậy hằng ngày má nhặt củi khô để làm gì. Hay do tuổi tác cao, trí tuệ má không còn minh mẫn, nhớ nhớ quên quên, nhặt củi như một thói quen hay má lẫn quên vì tuổi tác? Hay do má nghĩ quẩn, chuẩn bị củi lửa để “liều một thác cho yên” phận già? Những băn khoăn của tác giả cũng gieo vào lòng người đọc bao nỗi hoài nghi, thôi thúc trí tò mò khám phá câu trả lời.

+ Khổ cuối cùng: Tấm lòng vì dân vì nước, một lòng muốn bảo vệ những chiến sĩ cộng sản của ta mà bất chấp sự tra tấn của kẻ thù của bà má Hậu Giang.

– Thì ra, má ngày ngày kiếm củi để nấu cơm cho các chiến sĩ cộng sản đang ẩn trốn trong rừng U Minh, tránh sự truy lùng ráo riết của thực dân Pháp. Việc làm của má đã bị lũ giặc theo dõi, một hôm khi má đang nấu một nồi cơm to trên bếp, lũ giặc đã ập tới, bắt má khai ra chỗ ẩn lấp của các chiến sĩ Việt minh. Chúng đánh đập má già một cách thẳng tay, không thương tiếc.

– Nhưng như có một nguồn sức mạnh nội tại kì diệu, bà má Hậu Giang kiên cường, bất khuất trước đòn roi tra tấn của kẻ thù:

Sức đâu như ngọn sóng trào

Thân tao chết, dạ chẳng sờn!”

Biện pháp so sánh sức đâu như ngọn sóng trào khẳng định sức mạnh quật khởi của người má Hậu Giang. Đó là sự hun đúc sức mạnh của lòng căm thù giặc, sức mạnh của lòng quyết tâm và cả niềm tin sẽ tiêu diệt được kẻ thù của nhân dân Việt Nam nói chung. Lời bà má đã nói hết nỗi niềm của cả dân tộc. Là lời tố cáo đanh thép tội ác của kẻ thù cướp nước: Má hét lớn: “Tụi bay đồ chó! – Cướp nước tao, cắt cổ dân tao!; là ý chí quyết tâm và niềm tin tất thắng: Giết bay, có các con tao trăm vùng! Con tao, gan dạ anh hùng; Lời của má còn khẳng định sức mạnh không gì có thể tiêu diệt được của nhân dân ta: Con tao, gan dạ anh hùng – Như rừng đước mạnh, như rừng chàm thơm! – Thân tao chết, dạ chẳng sờn! Người mẹ Việt Nam anh hùng ấy đã kiên cường, quả cảm, bảo vệ đến cùng sự an toàn của “các con”.

– Chính thái độ kiên định, thà chết không chịu khai ra nơi ẩn lấp của chiến sĩ cộng sản, bà má đã chọc giận lũ chó săn cướp nước, chúng đã thẳng tay cướp đi mạng sống của má

Thương ôi! Lời má lưỡi gươm cắt rồi!

Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang.

Má ngã xuống, nhưng lời má thành lời hiệu triệu sức mạnh cho các con của má, cho nhân dân Nam Bộ. Hình ảnh ẩn dụ ví lũ giặc là muôn quỷ ngàn yêu – lũ yêu ma quỷ quái không hề có nhân tính. Má mất đi để còn mãi với nước non muôn đời, trở thành biểu tượng sức mạnh, đức hi sinh tuy âm thầm mà vĩ đại của người mẹ Việt Nam: Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang.

Luận điểm 2: Phân tích giá trị nghệ thuật và hiệu quả thẩm mĩ của nó trong biểu đạt nội dung bài thơ.

– Thành công trước hết về nghệ thuật của bài thơ là việc chọn thể thơ song thất lục bát. Đây là thể thơ có những quy định khá chặt chẽ về luật so với thể lục bát dân gian:

+ Mỗi khổ thơ nhỏ gồm bốn câu thơ: hai câu song thất (bảy chữ) và một cặp lục bát (sáu- tám chữ).

+ Gieo vần trong mỗi khổ: vần chân xen lẫn vần lưng, vần bằng kết hợp vần trắc.

Chẳng hạn ở bốn câu thơ sau, các chữ hiệp vần là:

Có ai biết, ai ngờ trong đó (T)

Còn chơ vơ một ổ (T) lều con (B)

Đạn bom qua, hãy sống còn (B)

Núp sau lưng rộng một hòn (T) đá to.

+ Nhịp thơ linh hoạt, cặp song thất thường là nhịp chẵn, như cặp câu sau: Hay má lẫn/ quên vì tuổi tác Hay má liều/ một thác cho yên?

Cặp lục bát thường ngắt nhịp chẵn như:

Sức đâu/ như ngọn sóng trào

Má già đứng dậy, /ngó vào thằng Tây

Tạo giọng điệu vừa hào hùng, vừa bi tráng để diễn tả không khí sục sôi cách mạng và sự quật khởi, kiên cường của người má Hậu Giang.

+ Chọn thể thơ này để biểu đạt nội dung về câu chuyện hi sinh quên mình của bà má Hậu Giang – một người mẹ Việt Nam anh hùng là hoàn toàn phù hợp. Bởi những câu thơ vừa đan xen kể việc, vừa bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình là người chiến sĩ cộng sản đã được má cưu mang, che chở.

– Ngôn ngữ, hình ảnh thơ vô cùng chân thực mà giàu giá trị biểu cảm. Lời thơ mà đan xen lời nói trực tiếp, khiến cho bài thơ giàu chất tự sự, rất đặc trưng của thể thơ song thất lục bát.

– Bài thơ còn sử dụng nhiều biện pháp tu từ giàu giá trị biểu đạt. Biện pháp điệp ngữ kết hợp câu hỏi tu từ trong những câu thơ:

Ai hay má cất củi khô làm gì?

Hay má lẫn quên vì tuổi tác

Hay má liều một thác cho yên?

Vừa tạo nhịp điệu, vừa tạo liên kết thơ, đồng thời nhấn mạnh những băn khoăn, thắc mắc về hành động cất củi khô của bà má. Từ đó khơi gợi sự tò mò, thu hút người đọc, người nghe. Biện pháp so sánh cũng được sử dụng rất thành công, có những so sánh để khẳng định sức mạnh quật khởi của bà má: “Sức đâu như ngọn sóng trào”; có so sánh cho thấy niềm tin vào sức mạnh bất diệt của quân dân ta:  

Con tao, gan dạ anh hùng

Như rừng đước mạnh, như rừng chàm thơm!

Niềm tin của má với các con – những chiến sĩ cộng sản Như rừng đước mạnh, như rừng chàm thơm chẳng kẻ thù nào, chẳng sức mạnh nào có thể diệt hết đước trong rừng U Minh, ngăn được chàm thôi sinh sôi nảy nở toả hương nơi cánh rừng này, cũng như kẻ thù chẳng bao giờ có thể tiêu diệt được “các con” của má. Đó cũng là niềm tin của cả dân tộc, từ đó tạo nên nguồn sức mạnh to lớn từng bước nhấn chìm giặc ngoại xâm…

* Đánh giá mở rộng:

– Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ:

Bài thơ “Bà má Hậu Giang” với thể thơ song thất lục bát tài hoa, đảm bảo nghiêm ngặt các yếu tố về gieo vần, ngắt nhịp, kết hợp với các biện pháp tu từ như điệp ngữ, so sánh, ẩn dụ,… Tố Hữu đã làm nổi bật hình tượng đẹp về người mẹ Việt Nam anh hùng bất khuất kiên cường, sẵn sàng hi sinh vì dân vì nước.

– Liên hệ: Đề tài người mẹ Việt Nam trong chiến tranh là nguồn cảm hứng lớn của thơ ca cách mạng. Những người phụ nữ với tình thương vô bờ, sẵn sàng cưu mang, yêu thương những người chiến sĩ cách mạng như con đẻ của mình. Nhà thơ Chế

Lan Viên từng cảm động viết nên những câu thơ: Con với mế không phải hòn máu cắt

Mà suốt đời con nhớ mãi ơn nuôi.

Tố Hữu có nhiều bài thơ viết về đề tài này, tiêu biểu như những bài: “Mẹ Tơm”, “Mẹ Suốt”, “Bầm ơi”, … nhưng đa phần đều được viết bằng thể lục bát quen thuộc. Duy chỉ có bài “Bà má Hậu Giang” viết bằng thể song thất lục bát. Nhưng dù viết bằng thể thơ nào, những bài thơ của Tố Hữu đã thực sự tạc dựng bức tượng đài vĩ đại về những người Mẹ Việt Nam anh hùng bất tử với thời gian.

Kết bài: Khẳng định giá trị bài thơ, nêu bài học bản thân.

Bài thơ “Bà má Hậu Giang” ra đời cách chúng ta đã gần một thế kỉ, nhưng những giá trị độc đáo về nội dung và nghệ thuật đã đưa bài thơ trở thành một khúc ca đi cùng năm tháng. Bài thơ bồi đắp cho người đọc chúng ta hôm nay niềm cảm phục, tự hào, lòng biết ơn với những hi sinh âm thầm mà vĩ đại của những người phụ nữ Việt Nam muôn đời.

5/5 - (1 bình chọn)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *