Đề bài: Phân tích bài thơ Bà Má Hậu Giang của Tố Hữu
BÀ MÁ HẬU GIANG
(Tố Hữu)
Trời Hậu Giang, tù và dậy rúc
Phèn la kêu, trống giục vang đồng
Đường quê đỏ rực cờ hồng
Giáo gươm sáng đất, tầm vông nhọn trời
Quyết một trận, quét đời nô lệ
Quăng máu xương, phá bẻ xiềng gông!
Hỡi ôi! Việc chửa thành công Hôm nay máu chảy đỏ đồng Hậu Giang Giặc lùng, giặc đốt xóm làng
Xác xơ cây cỏ, tan hoang cửa nhà
Một vùng trắng bãi tha ma
Lặng im, không một tiếng gà gáy trưa.
Có ai biết, ai ngờ trong đó
Còn chơ vơ một ổ lều con
Đạn bom qua, hãy sống còn
Núp sau lưng rộng một hòn đá to.
Có ai biết trong tro còn lửa
Một má già lần lữa không đi
Ở đây sóng gió bất kỳ
Má ơi, má ở làm chi một mình?
Rừng một dải U Minh tối sớm
Má lom khom đi lượm củi khô
Ngày đêm củi chất bên lò
Ai hay má cất củi khô làm gì?
Hay má lẫn quên vì tuổi tác
Hay má liều một thác cho yên?
Bỗng đâu một buổi mai lên
Trên đường quê ấy, qua miền nghĩa quân
Một toán quỷ rầm rầm rộ rộ
Mắt mèo hoang, mũi chó, râu dê
Súng trường nhọn hoắt lưỡi lê
Khét nồng khí chết, tanh dề máu oan!
Chúng rảo bước. Lính quan nện gót
Mắt nhìn quanh lục mót dạng người
Đồng không, lạnh vắng, im hơi
Chỉ đôi bóng quạ ngang trời loáng qua
Ách-là! Thằng quan ba dừng bước
Rút ống dòm, và ngước mắt nheo
Xa xa, sau lớp nhà xiêu
Một tia khói nhỏ ngoằn ngoèo bay lên…
Hắn khoái trá cười điên sằng sặc
Nhe hàm răng sáng quắc như gươm
Vẫy tay lũ tớ gườm gườm
Như bầy chó đói chực chồm miếng ăn.
Rồi lặng lặng bước chân hùm sói
Tiến dần lên tia khói, vây quanh…
Má già trong túp lều tranh
Ngồi bên bếp lửa, đun cành củi khô
Một mình má, một nồi to
Cơm vừa chín tới, vùi tro, má cười…
Chết! Có tiếng gì rơi sột soạt?
Má già run, trán toát mồ hôi
Chạy đâu? Thôi chết, chết rồi!
Gót giày đâu đã đạp rơi liếp mành.
Một thằng cướp, mắt xanh mũi lõ
Đốc gươm dài tuốt vỏ cầm tay
Rung rinh bậc cửa tre gầy
Nghênh ngang một ống chân đầy lối đi!
Hắn rướn cổ, giương mi, trợn mắt
Như hổ mang chợt bắt được mồi
Trừng trừng trông ngược trông xuôi
Trông vào bếp lửa: Một nồi cơm to.
Hắn rống hét: “Con bò cái chết!
Một mình mày ăn hết này sao?
Đừng hòng che được mắt tao
Khai mau, du kích ra vào nơi đâu?
Khai mau, tao chém mất đầu!”
Má già lẩy bẩy như tàu chuối khô
Má ngã xuống bên lò bếp đỏ
Thằng giặc kia đứng ngõ trừng trừng
Má già nhắm mắt, rưng rưng
“Các con ơi, ở trong rừng U Minh Má có chết, một mình má chết
Cho các con trừ hết quân Tây!”
Thằng kia bỗng giậm gót giày
Đạp lên đầu má: “Mẹ mày, nói không?”
Lưỡi gươm lạnh toát kề hông
“Các con ơi! Má quyết không khai nào!”
Sức đâu như ngọn sóng trào
Má già đứng dậy, ngó vào thằng
Tây Má hét lớn: “Tụi bay đồ chó!
Cướp nước tao, cắt cổ dân tao!
Tao già không sức cầm dao
Giết bay, có các con tao trăm vùng!
Con tao, gan dạ anh hùng
Như rừng đước mạnh, như rừng tràm thơm!
Thân tao chết, dạ chẳng sờn!”
Thương ôi! Lời má lưỡi gươm cắt rồi!
Một dòng máu đỏ lên trời
Má ơi, con đã nghe lời má kêu!
Nước non muôn quý ngàn yêu
Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang.
(Tố Hữu, Từ ấy, NXB Văn học, 1959)
Dàn ý Phân tích bài thơ Bà Má Hậu Giang của Tố Hữu
Mở bài
– Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học cách mạng Việt Nam, với phong cách thơ trữ tình chính trị sâu sắc và giàu cảm xúc.
– Trong hành trình sáng tác của ông, bài thơ “Bà Má Hậu Giang” nổi bật với hình tượng người mẹ Nam Bộ kiên cường, bất khuất giữa khói lửa chiến tranh.
– Bài thơ được viết trong hoàn cảnh kháng chiến chống Pháp đang diễn ra ác liệt, là khúc tráng ca ca ngợi tinh thần anh hùng, lòng yêu nước và sự hy sinh cao cả của nhân dân miền Nam, đặc biệt là hình ảnh bà má Hậu Giang – biểu tượng của khí phách Việt Nam.
Với “Bà Má Hậu Giang”, Tố Hữu không chỉ dựng lên chân dung một người mẹ Việt Nam gan góc, mà còn khắc sâu vào lòng người đọc hình ảnh đẹp đẽ của phẩm chất dân tộc trong những năm tháng đấu tranh đầy máu lửa. Qua lối kể chuyện giản dị nhưng giàu cảm xúc, nhà thơ đã để lại một bài ca thấm đẫm khí phách anh hùng và tình thương vô hạn. Hình ảnh bà má – giữa hoang tàn vẫn nhóm lửa, trước họng súng vẫn ngẩng đầu – mãi mãi là biểu tượng của lòng trung trinh, bất khuất. Bài thơ không chỉ là lời tri ân một con người,
Thân bài
1. – Khung cảnh vùng đất Hậu Giang trong kháng chiến:
+ Tác phẩm mở ra bằng hình ảnh một vùng sông nước Hậu Giang sục sôi khí thế đấu tranh, nơi mà mỗi tiếng tù và, mỗi nhịp trống như thúc giục người dân đứng dậy bảo vệ quê hương.
+ Những hình ảnh như “tù và”, “phèn la”, “cờ hồng”, “giáo gươm”… tạo nên một bức tranh rực lửa, cho thấy sự đồng lòng, tinh thần kháng chiến mạnh mẽ của người dân miền Nam trong thời kỳ gian khó.
+ Hậu Giang hiện lên như một biểu tượng của tinh thần bất khuất không khuất phục trước kẻ thù.
2. – Cảnh hoang tàn sau cuộc càn quét của giặc:
+ Không gian bị nhuộm màu thê lương sau khi quân Pháp tràn vào, thiêu rụi làng mạc, cướp đi sự sống và để lại nỗi đau khôn nguôi.
+ Những hình ảnh như “cây cỏ xác xơ”, “cửa nhà tan hoang”, “bãi tha ma trắng xóa” vừa cụ thể vừa gợi cảm, tái hiện sự đổ nát đến cùng cực của một vùng quê sau chiến tranh.
+ Tiếng gà không còn gáy, sự im lặng ghê rợn bao trùm tất cả – như một khoảng lặng tang thương giữa những hồi trống kháng chiến.
3. – Hình ảnh bà má Hậu Giang – người phụ nữ Việt Nam kiên trung:
+ Giữa vùng đất hoang tàn ấy, bà má Hậu Giang vẫn còn sống, lặng lẽ trong túp lều nhỏ – hình ảnh gợi nên sự kiên trì, gan dạ giữa lằn ranh sinh tử.
+ Bà má vẫn nhóm bếp, lượm củi, sống sót như một cây cỏ dại nhưng không bao giờ cúi đầu.
+ Dù trong lòng có chút hoang mang, lo lắng, nhưng bà má vẫn giữ vững niềm tin, tuyệt đối không rời bỏ mảnh đất quê hương thân yêu.
4. – Cuộc chạm trán căng thẳng với kẻ thù:
+ Hình ảnh kẻ thù được khắc họa bằng lối miêu tả sắc sảo: “mắt mèo hoang”, “mũi chó”, “râu dê”, súng lưỡi lê… – vừa hiện thực vừa mang màu sắc phúng dụ, làm nổi bật sự hung bạo và dã man của quân xâm lược.
+ Chúng lùng sục từng căn nhà, và cuối cùng phát hiện ra túp lều nơi bà má ở.
+ Dù bị tra khảo, đe dọa đến tính mạng, bà má vẫn một lòng trung thành, quyết không khai báo – như một bức tường thành bất khuất, đơn độc mà kiên cường.
5. – Sự hy sinh đầy bi tráng của bà má:
+ Những lời cuối cùng của bà má vang lên như tiếng chuông cảnh tỉnh, như bản tuyên ngôn của lòng yêu nước cháy bỏng.
+ Dù bị giặc giết hại, hình ảnh bà má Hậu Giang vẫn sống mãi trong tâm trí người đọc với sự ngưỡng mộ sâu sắc về khí chất và tấm lòng son sắt với Tổ quốc.
+ Sự hy sinh ấy không chỉ là nỗi đau, mà còn là ngọn lửa truyền lửa, là biểu tượng của lòng yêu nước thầm lặng mà vĩ đại của người mẹ Việt Nam trong kháng chiến.
Kết bài
– “Bà Má Hậu Giang” không chỉ là một bài thơ mang tính tự sự hay kể chuyện, mà còn là bản hùng ca bất tử về lòng yêu nước, sự kiên trung của người phụ nữ Việt trong kháng chiến.
– Tố Hữu bằng giọng thơ giàu nhạc điệu và hình tượng sâu sắc đã dựng nên chân dung một người mẹ – một biểu tượng bất diệt cho tinh thần chiến đấu không lùi bước.
– Bài thơ là minh chứng sống động cho sức mạnh tinh thần của dân tộc ta, và hình ảnh bà má Hậu Giang sẽ mãi là ngọn đèn sáng dẫn đường cho thế hệ hôm nay và mai sau trong hành trình giữ gìn và bảo vệ Tổ quốc.
Tố Hữu là một trong những gương mặt lớn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, người đã dùng ngôn ngữ của trái tim để viết nên những bản anh hùng ca thấm đẫm tình dân, nghĩa nước. Trong số những thi phẩm tiêu biểu của ông, bài thơ “Bà Má Hậu Giang” nổi bật như một tượng đài cảm xúc, ghi dấu hình ảnh người mẹ Nam Bộ kiên cường giữa những ngày lửa đạn. Được sáng tác trong hoàn cảnh kháng chiến chống thực dân Pháp, bài thơ không chỉ khắc họa chân dung một con người cụ thể, mà còn là tiếng nói hào sảng của một dân tộc bất khuất, lấy tình thương và lòng yêu nước làm vũ khí. Qua đó, Tố Hữu gửi gắm trọn vẹn niềm tin vào sức mạnh tinh thần của nhân dân – đặc biệt là những người mẹ bình dị mà phi thường nơi tuyến lửa miền Nam.
Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Bà Má Hậu Giang của Tố Hữu
Bài văn mẫu 1
Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học cách mạng Việt Nam, với phong cách thơ trữ tình chính trị sâu sắc và giàu cảm xúc. Ông luôn biết cách đưa những hình tượng bình dị trong đời sống chiến đấu vào thơ, để rồi từ đó làm bừng sáng cả một lý tưởng lớn. Trong hành trình sáng tác của mình, bài thơ “Bà Má Hậu Giang” nổi bật như một bản tráng ca đầy cảm động về hình ảnh người mẹ Nam Bộ kiên cường, bất khuất giữa khói lửa chiến tranh.
Tác phẩm được viết trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra ác liệt, nơi từng tấc đất miền Nam đều thấm máu và lòng yêu nước. Qua hình ảnh người mẹ Hậu Giang – người phụ nữ bình thường nhưng mang tầm vóc phi thường – Tố Hữu đã khắc họa đậm nét tinh thần anh hùng, tình thương và sự hy sinh cao cả của nhân dân Nam Bộ nói riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung. Với “Bà Má Hậu Giang”, Tố Hữu không chỉ dựng nên chân dung một người mẹ Việt Nam gan góc, mà còn khắc sâu vào lòng người đọc hình ảnh đẹp đẽ của phẩm chất dân tộc trong những năm tháng đấu tranh máu lửa. Qua lối kể chuyện giản dị nhưng giàu cảm xúc, nhà thơ đã để lại một bài ca thấm đẫm khí phách anh hùng và tình thương vô hạn. Hình ảnh bà má – giữa hoang tàn vẫn nhóm lửa, trước họng súng vẫn ngẩng đầu – mãi mãi là biểu tượng của lòng trung trinh, bất khuất, là lời tri ân cảm động dành cho hàng triệu người mẹ Việt Nam âm thầm giữ đất giữ làng trong chiến tranh.
Bài thơ mở đầu bằng một loạt hình ảnh và âm thanh gợi không khí kháng chiến dữ dội và đầy quyết liệt ở Hậu Giang – mảnh đất phương Nam luôn cháy rực tinh thần cách mạng. Từ tiếng tù và dậy rúc, tiếng trống giục, đến sắc cờ hồng tung bay, ánh sáng giáo gươm phản chiếu rực đất trời, tất cả tạo nên một trường cảnh tráng lệ mà cũng đầy đau thương:
“Tù và dậy rúc, phèn la kêu, trống giục vang đồng
Đường quê đỏ rực cờ hồng
Giáo gươm sáng đất, tầm vông nhọn trời.”
Đó không chỉ là cuộc chiến đấu bằng vũ khí, mà là cuộc vùng lên bằng ý chí của những con người “quét đời nô lệ”, dám “quăng máu xương, phá bẻ xiềng gông”. Vùng đất Hậu Giang hiện lên như một biểu tượng sống động cho khí phách quật cường của cả dân tộc trong thời khắc lịch sử.
Sau khí thế kháng chiến ngút trời là khoảng lặng tan thương của một miền quê bị giặc tàn phá. Không khí đậm đặc bi thương lan tỏa qua từng hình ảnh:
“Hôm nay máu chảy đỏ đồng Hậu Giang
Giặc lùng, giặc đốt xóm làng
Xác xơ cây cỏ, tan hoang cửa nhà
Một vùng trắng bãi tha ma
Lặng im, không một tiếng gà gáy trưa.”
Cây cỏ cháy sém, nhà cửa đổ nát, cả bãi tha ma trắng xóa – tất cả như gợi nên một cõi hoang vu chết chóc, nơi mà sự sống đã bị bóp nghẹt bởi bạo tàn. Âm thanh duy nhất còn lại là sự lặng im đến rợn người – nỗi lặng câm của cả đất trời trước bi kịch dân tộc.
Trong khung cảnh đổ nát ấy, bà má vẫn sống – một sự sống thầm lặng nhưng kiên cường. Không bỏ đi, không rời khỏi quê hương, bà má như một gốc cây già trụ vững qua bão giông, như một mầm sống nhỏ nhoi vẫn âm ỉ cháy trong tro tàn:
“Còn chơ vơ một ổ lều con
Đạn bom qua, hãy sống còn
Núp sau lưng rộng một hòn đá to.”
Bà má không rời đi vì “trong tro còn lửa”, vì bà là người giữ đất, giữ hồn quê. Dù lặng lẽ lượm củi, nhóm bếp, bà vẫn mang trong mình một niềm tin âm thầm – rằng nơi đây, dù tiêu điều, vẫn là quê hương của nhân dân, là nơi máu thịt của dân tộc không thể bị cướp đi.
Khi tên lính Pháp xuất hiện, sự hung tàn hiện rõ trong từng dáng điệu và lời nói. Hắn bước vào lều má với sự hống hách và đe dọa:
“Một thằng cướp, mắt xanh mũi lõ
Đốc gươm dài tuốt vỏ cầm tay
Hắn rống hét: ‘Con bò cái chết!
Một mình mày ăn hết này sao?…
Khai mau, tao chém mất đầu!’”
Nhưng bà má không lùi bước, không run rẩy, không thốt ra lời nào làm tổn thương đến đồng đội. Cái im lặng của bà không phải vì sợ hãi, mà là bản lĩnh của một người chiến sĩ nơi tuyến sau. Trong khi hắn “rướn cổ, giương mi, trợn mắt”, bà vẫn đứng vững như một tượng đài sống.
Khi giặc tra khảo và đe dọa, bà má không hề hé răng dù chỉ một lời. Bà biết cái chết ở ngay trước mắt, nhưng lòng yêu nước trong bà còn lớn hơn cả sự sống.
Trong giờ phút cuối cùng, bà má như một bản hùng ca bi tráng – không chỉ là người mẹ của những chiến sĩ, mà còn là mẹ của đất nước. Sự hy sinh của bà không chỉ gieo đau thương, mà còn gieo mầm tin yêu và bất khuất vào lòng dân tộc. Hình ảnh bà má ngã xuống là để ngẩng cao hơn biểu tượng của lòng trung trinh vĩnh cửu.
“Bà Má Hậu Giang” không chỉ là một bài thơ mang tính tự sự hay kể chuyện, mà còn là bản hùng ca bất tử về lòng yêu nước, sự kiên trung của người phụ nữ Việt trong kháng chiến. Với ngôn ngữ dung dị mà đầy sức lay động, giọng thơ da diết, hình ảnh chân thật giàu cảm xúc, Tố Hữu đã dựng nên chân dung một người mẹ – một biểu tượng bất diệt cho tinh thần chiến đấu không lùi bước. Bài thơ là minh chứng sống động cho sức mạnh tinh thần của dân tộc ta, và hình ảnh bà má Hậu Giang sẽ mãi là ngọn đèn sáng dẫn đường cho thế hệ hôm nay và mai sau trong hành trình giữ gìn và bảo vệ Tổ quốc.
Tố Hữu là một trong những gương mặt lớn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, người đã dùng ngôn ngữ của trái tim để viết nên những bản anh hùng ca thấm đẫm tình dân, nghĩa nước. Trong số những thi phẩm tiêu biểu của ông, bài thơ “Bà Má Hậu Giang” nổi bật như một tượng đài cảm xúc, ghi dấu hình ảnh người mẹ Nam Bộ kiên cường giữa những ngày lửa đạn. Được sáng tác trong hoàn cảnh kháng chiến chống thực dân Pháp, bài thơ không chỉ khắc họa chân dung một con người cụ thể, mà còn là tiếng nói hào sảng của một dân tộc bất khuất, lấy tình thương và lòng yêu nước làm vũ khí. Qua đó, Tố Hữu gửi gắm trọn vẹn niềm tin vào sức mạnh tinh thần của nhân dân – đặc biệt là những người mẹ bình dị mà phi thường nơi tuyến lửa miền Nam.
Bài văn mẫu 1
Tố Hữu là nhà thơ lớn của nền văn học cách mạng Việt Nam, người đã đặt trái tim mình vào từng vần thơ, để qua đó ngợi ca đất nước, con người và lý tưởng sống của cả một dân tộc. Trong tập thơ kháng chiến, bài thơ “Bà Má Hậu Giang” hiện lên như một tượng đài cảm xúc, khắc sâu hình ảnh người mẹ Nam Bộ giữa khói lửa, tàn tro, nhưng vẫn kiên trung, bất khuất đến cùng.
Mở đầu tác phẩm là bức tranh kháng chiến sục sôi khí thế. Tiếng tù và, phèn la, trống giục vang đồng, cờ hồng tung bay, giáo gươm rực sáng – tất cả như một khúc tráng ca hào hùng về cuộc vùng lên của nhân dân miền Nam. Nhưng sau giây phút rực lửa ấy, thực tại đẫm máu ùa về:
“Giặc lùng, giặc đốt xóm làng
Xác xơ cây cỏ, tan hoang cửa nhà.”
Âm thanh của bom đạn đã lùi xa, chỉ còn lại một cõi im lặng tang thương. Cả làng hóa thành bãi tha ma, và tiếng gà gáy trưa cũng biến mất. Không gian ấy khiến người đọc nghẹn ngào, như thể sự sống đã rời bỏ nơi này.
Giữa hoang tàn, vẫn còn đó một người – bà má Hậu Giang. Không chạy trốn, không hoảng loạn, bà ở lại, lặng lẽ giữ đất, giữ hồn làng. Hành động tưởng như nhỏ bé như lượm củi, nhóm lửa lại mang sức mạnh lớn lao. Nó là minh chứng cho niềm tin âm ỉ vẫn cháy trong tro tàn: “trong tro còn lửa”.
Khi tên lính Pháp xuất hiện, cả bài thơ chuyển sang một cao trào kịch tính. Với đôi mắt lạnh lùng, cây súng lăm lăm, hắn tiến vào túp lều của má và hét lớn. Nhưng dù bị đe dọa, tra hỏi, bà má không hé răng một lời. Cái im lặng ấy không phải là yếu đuối, mà là một tiếng thét không lời – thét bằng lòng trung thành, bằng ý chí không khuất phục.
Và rồi, bà ngã xuống. Nhưng bà không chết. Bà hóa thân thành biểu tượng – của lòng yêu nước, của sức mạnh dân tộc, của những bà mẹ Việt Nam âm thầm nhưng bất tử.
“Bà Má Hậu Giang” vì thế không chỉ là câu chuyện của một người. Đó là khúc hát bi hùng về một thế hệ đã sống và chết vì Tổ quốc. Là lời tri ân mà Tố Hữu dành cho tất cả những người phụ nữ Việt Nam đã “giữ đất” trong những năm tháng gian khổ nhất của lịch sử.
Bài văn mẫu 3
Khi nhắc đến thơ ca kháng chiến, người ta không thể quên Tố Hữu – nhà thơ của trái tim dân tộc, người đã biến những câu chuyện rất đời thường thành thi ca tráng lệ. “Bà Má Hậu Giang” là một bài thơ như thế. Nó không dùng những từ hoa mỹ, không có biện pháp nghệ thuật cầu kỳ, nhưng mỗi dòng đều thấm đẫm nỗi đau, niềm tin và tình thương của cả một dân tộc.
Không khí kháng chiến được mở đầu bằng âm thanh của tù và, trống giục, sắc đỏ của cờ, ánh sáng của gươm giáo. Hậu Giang hiện lên như một vùng đất tràn đầy khát vọng tự do. Nhưng ánh sáng ấy nhanh chóng bị phủ kín bởi khói lửa của giặc thù. Làng mạc tan hoang, cỏ cây rụng rời, không một tiếng gà gáy – không gian bị bóp nghẹt bởi sự tàn phá đến tận cùng.
Giữa hoang tàn ấy, bà má hiện lên như một điểm sáng. Không lời than vãn, không một giọt nước mắt. Bà má giữ đất bằng sự tồn tại lặng lẽ. Củi bà nhóm, lửa bà thắp, là hơi ấm cuối cùng của quê hương. Bà không bỏ đi, vì nơi ấy không chỉ là nhà – mà là xương máu của biết bao người đã nằm xuống.
Tên lính Pháp xuất hiện như hiện thân của bóng tối. Hắn tra hỏi, hắn rít gào, nhưng không lay chuyển được người phụ nữ ấy. Bà má không nói. Nhưng cái im lặng của bà là lời tuyên bố mạnh mẽ nhất về lòng trung thành với cách mạng.
Khi bà má ngã xuống, bà không còn là một cá nhân. Bà hóa thân vào đất, thành máu thịt của quê hương, thành niềm tin không thể bị giẫm đạp. Hình ảnh bà má ngẩng đầu giữa họng súng, đứng vững giữa ranh giới của sống và chết, chính là đỉnh cao của tinh thần bất khuất Việt Nam.
Tố Hữu không cần nói nhiều. Chỉ bằng hình ảnh một bà má nhóm lửa giữa đổ nát, ông đã viết nên bài thơ về sức mạnh bền bỉ nhất – sức mạnh đến từ tình thương, từ lòng yêu nước âm thầm mà bất tử.