Đề bài: Phân tích bài thơ Đêm Đông Cảm Hoài của Tản Đà
ĐÊM ĐÔNG CẢM HOÀI
(Tản Đà)
Trăm năm nghĩ đời người có mấy
Một đêm đông sao thấy dài thay
Lạnh lùng gió thổi sương bay
Chập chờn giấc bướm, canh chầy lại canh
Ngó lên án đèn xanh hiu hắt
Nghe tiếng kim… ký cách giục giờ
Đêm trường nghĩ vẩn lo vơ
Cái lo vô tận bao giờ là xong
Thân nam tử đứng trong trần thế
Cuộc trăm năm có dễ ru mà!
Có đời mà đã có ta
Sao cho thân thế không là cỏ cây
Đời có kẻ đường mây gặp bước
Bước công danh sân trước trèo cao
Thế gian tỏ mặt anh hào
Muôn nghìn mắt miệng trông vào ngợi khen
Cũng có kẻ tài hơn chữ lợi
Trắng hai tay làm nổi nên giàu
Chẳng khanh tướng, chẳng công hầu
Cũng bao vạn kẻ cúi đầu vào ra
Ấy những hạng vinh hoa phú quý
Làm tài trai đắc chí hơn người
Trăm năm nghĩ cũng nên đời
Trăm năm rồi nữa… biết thời ra sao?
Lại những kẻ chí cao tài thấp
Bước đường đời lấp vấp quanh co
Phong lưu rồi đủ ấm no
Kém ra, lưu lạc giang hồ cũng thân!
Nghĩ qua thử, khách trần bao kẻ
Giật mình cho thân thế trăm năm
Mối đâu bối rối tơ tằm
Lấy ai là kẻ đồng tâm gỡ cùng
Bước lận đận thẹn thùng sông núi
Mớ văn chương tháng lụi năm tàn
Lụy trần ngày tháng lan man
Nỗi lòng càng nghĩ muôn vàn càng thêm…
Đèn hiu hắt, tiếng kim ký cách
Mõ sang canh giục khách đòi cơn
Mạch sầu canh vắng như tuôn
Nhớ ai nước nước non non bạn tình!
(Thơ Tản Đà, NXB Văn học, 2018)
Dàn ý Phân tích bài thơ Đêm Đông Cảm Hoài của Tản Đà
Mở bài
– Tản Đà là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX, người đã mang đến cho thi đàn một giọng thơ mới mẻ, giao thoa giữa cổ điển và hiện đại.
– Trong số các sáng tác của ông, bài thơ “Đêm Đông Cảm Hoài” nổi bật như một tiếng thở dài trầm buồn, phản ánh tâm trạng đầy day dứt của một trí thức trước thời cuộc biến động.
– Bài thơ không chỉ là lời tự tình, mà còn là bức chân dung nội tâm của một con người nhiều trăn trở, cảm hoài về thân phận, về dân tộc và cả vận mệnh thời đại.
Tản Đà là một trong những tiếng thơ đặc biệt của văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX. Với giọng thơ giao hòa giữa cổ điển và hiện đại, ông không chỉ thể hiện cái tôi lãng tử mà còn mang theo trong thơ mình những nỗi niềm ưu tư về thời cuộc. Trong số những thi phẩm giàu cảm xúc ấy, “Đêm Đông Cảm Hoài” là một bài thơ tiêu biểu, thể hiện rõ nét tâm trạng bơ vơ, ngậm ngùi của một trí thức giữa dòng chảy biến động của lịch sử dân tộc. Bằng những hình ảnh lạnh lẽo, không gian tĩnh mịch và ngôn ngữ mang đầy trăn trở, tác phẩm như lời thủ thỉ buồn bã nhưng cũng sâu sắc về thân phận con người và vận mệnh đất nước.
Thân bài
Hoàn cảnh sáng tác và nội dung bài thơ
– “Đêm Đông Cảm Hoài” được sáng tác trong giai đoạn đầu thế kỷ XX, khi đất nước đang trải qua những chuyển biến dữ dội về chính trị và văn hóa.
– Bài thơ thể hiện nỗi buồn sâu kín, sự cô đơn của một trí thức yêu nước, đau đáu với vận mệnh đất nước giữa một thời kỳ đầy hỗn loạn.
Phân tích các khổ thơ
Khổ thơ đầu – Cảnh đêm đông gợi tâm trạng
– Câu thơ mở ra bằng hình ảnh “đêm đông”, vốn đã gợi sự lạnh giá, trống trải, nay càng được tô đậm bởi chi tiết “gió lùa khe cửa, trăng chiếu mái hiên”.
– Không gian tĩnh lặng nhưng ám ảnh, như một tấm nền mờ nhòe phản chiếu nội tâm buồn bã, hiu hắt của nhà thơ.
Khổ thơ hai – Tâm sự về cuộc đời
– Nhà thơ thổ lộ nỗi chán chường khi viết: “Nghĩ đời mà ngán cho đời”, cho thấy tâm thế hoang mang, mất phương hướng trước những biến thiên xã hội.
– Cảm xúc cá nhân nhưng cũng mang tính đại diện cho một tầng lớp trí thức bấy giờ – những người sống trong sự giằng xé giữa lý tưởng và hiện thực.
Khổ thơ ba – Hình ảnh đất nước và nỗi lo thời cuộc
– Câu thơ “Đêm đông sương phủ đầy trời, gió thổi từng cơn” không chỉ là mô tả thời tiết, mà còn là ẩn dụ về vận nước u ám, mong manh.
– Tản Đà không gào thét, nhưng bằng nỗi buồn lặng lẽ, ông đã cho thấy sự lo lắng day dứt về hướng đi của dân tộc trong những ngày tối tăm.
Giá trị nghệ thuật
Hình ảnh và ngôn ngữ thơ
– Hình ảnh được chọn lọc kỹ, giàu tính biểu cảm và mang chiều sâu tâm trạng.
– Ngôn ngữ thơ mộc mạc nhưng thấm đẫm cảm xúc, có sức gợi hình và gợi cảm cao.
Giọng điệu và phong cách
– Giọng thơ trầm buồn, nhẹ nhàng mà thấm thía, như lời tự sự trong đêm khuya.
– Thể hiện rõ phong cách thơ trữ tình pha lẫn suy tư, vốn là dấu ấn riêng của Tản Đà.
Ý nghĩa và giá trị tư tưởng
– Bài thơ là tiếng nói lặng lẽ nhưng tha thiết của một người có tâm huyết với dân tộc.
– Đồng thời cũng là bản hòa ca chung cho biết bao tâm hồn Việt trong thời đại ấy, những con người sống giữa giao thời, giữa khát vọng và thực tại xám màu.
Kết bài
– “Đêm Đông Cảm Hoài” là một trong những thi phẩm giàu chiều sâu tư tưởng, thể hiện rõ phong cách và tâm hồn nghệ sĩ của Tản Đà.
– Bằng lối viết nhẹ nhàng mà sâu lắng, bài thơ không chỉ chạm đến nỗi niềm riêng tư, mà còn khơi dậy trong người đọc sự cảm thông cho một thời kỳ đầy rối ren, đầy trăn trở.
– Tản Đà đã để lại một dấu ấn khó phai, và bài thơ này mãi mãi là lời tự tình tha thiết của một trí thức luôn mang nặng nỗi lo về vận mệnh của quê hương đất nước.
“Đêm Đông Cảm Hoài” không chỉ là tiếng thở dài man mác của một cá nhân, mà còn là tiếng vọng của cả một thế hệ đang khắc khoải trước tương lai mờ mịt. Qua từng câu chữ, Tản Đà không phô trương bi lụy mà nhẹ nhàng khơi dậy trong lòng người đọc cảm xúc lặng lẽ nhưng đầy suy ngẫm. Bài thơ vì thế trở thành một minh chứng sống động cho tài năng, tấm lòng và chiều sâu tư tưởng của nhà thơ Tản Đà – người đã góp phần làm nên diện mạo mới cho thơ Việt đầu thế kỷ XX bằng chính sự thành thật và da diết trong cảm xúc của mình.
Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Đêm Đông Cảm Hoài của Tản Đà
Mở bài
Tản Đà tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Ông là một cây bút phóng khoáng, xông xáo trên nhiều lĩnh vực, là “gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại” như lời đánh giá của Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam.
Tiêu biểu cho thơ trữ tình của ông là bài “Đêm đông hoài cảm”. Bài thơ là nỗi niềm của một con người “tài cao phận thấp” rất đáng để ta suy ngẫm.
Thân bài:
2.1. Khái quát:
Trong bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, có lẽ mùa đông là “kém duyên” với thi ca hơn cả. Bởi mùa đông, nhất là mùa đông xứ nhiệt đới như nước ta, thường là mùa lạnh giá, thiên nhiên tiêu điều, hoang hoải, lụi tàn. Nhưng với những tâm hồn đa cảm, chất chứa nhiều tâm sự, thì mùa đông lại chính là nơi để kí thác, gửi gắm u hoài. “Đêm đông hoài cảm” của Tản Đà là một áng thơ như vậy.
Luận điểm 1: Phân tích nội dung chủ đề của văn bản.
– Hai khổ thơ đầu tái hiện khung cảnh gợi niềm tâm sự của thi nhân:
Trăm năm nghĩ đời người có mấy
Một đêm đông sao thấy dài thay
Lạnh lùng gió thổi sương bay
Chập chờn giấc bướm, canh chầy lại canh
+ Thời gian, không gian nghệ thuật được gợi tả là một đêm đông với gió thổi sương bay lạnh lùng. Một đêm mà cảm giác dài như cả trăm năm.
+ Hình ảnh Chập chờn giấc bướm, canh chầy lại canh gợi sự thao thức năm canh của chủ thể trữ tình, giấc ngủ mơ màng như giấc mộng, suốt đêm dài đếm tiếng trống canh thâu canh chầy lại canh. Sự thao thức, trăn trở ấy báo hiệu một nỗi niềm chất chứa khó giãi bày.
Ngó lên án đèn xanh hiu hắt
Nghe tiếng kim… ký cách giục giờ
Đêm trường nghĩ vẩn lo vơ
Cái lo vô tận bao giờ là xong
+ Hàng loạt các động từ xuất hiện gợi trạng thái của nhân vật trữ tình: ngó lên án đèn, nghe tiéng kim đồng hồ kí cách giục giờ, nghĩ vẩn lo vơ, … Phải là người từng trải qua những đêm dài thao thức, trong màn đêm chỉ biết trông đèn, đếm nhịp thời gian để mong đêm chóng qua mới thấu hết tâm tư của tác giả.
+ Và những đêm không ngủ, trong đầu con người lại xuất hiện biết bao suy nghĩ vẩn vơ, bao lo âu vô tận.
– Ba khổ thơ tiếp theo: Suy ngẫm về phận làm trai và thân thế, sự nghiệp chưa được như ý nguyện của nhà thơ:
Lại những kẻ chí cao tài thấp
Bước đường đời lấp vấp quanh co
Phong lưu rồi đủ ấm no
Kém ra, lưu lạc giang hồ cũng thân!
+ Giữa bao người công danh thuận buồn xuôi gió, hoạn lộ hanh thông, thi nhân ngẫm về những người chí cao tài thấp, những con người lực bất tòng tâm gặp nhiều trắc trở lấp vấp quanh co trên đường đời. Có những người may mắn thì có cuộc sống đủ ấm cơm no áo, cũng có kẻ kém may mắn phải lưu lạc tha hương. Những dòng thơ ăm ắp niềm xót thương, đồng cảm với những bậc nam nhi có tâm, có tài mà bất đắc chí trong xã hội rối ren lúc bấy giờ.
+ Ngẫm người mà nghĩ đến ta, nhà thơ giật mình nhận thấy dường như có mình trong số bao người chí cao tài thấp ấy:
Nghĩ qua thử, khách trần bao kẻ
Giật mình cho thân thế trăm năm
Mối đâu bối rối tơ tằm
Lấy ai là kẻ đồng tâm gỡ cùng
Nghĩ tới đó, tâm trạng thi nhân lại càng thêm rối bời như trăm mối tơ vò Mối đâu bối rối tơ tằm mà không biết sẻ chia, tâm sự cùng ai Lấy ai là kẻ đồng tâm gỡ cùng. + Những dòng thơ thấm đẫm tâm sự thời thế: Bước lận đận thẹn thùng sông núi
Mớ văn chương tháng lụi năm tàn
Luỵ trần ngày tháng lan man
Nỗi lòng càng nghĩ muôn vàn càng thêm… Bản thân nhà thơ là người gặp nhiều trắc trở trong con đường công danh, sự nghiệp. Có chí lập thân giúp đời nhưng không được thoả nguyện nên chỉ biết thẹn thùng sông núi. Lại nghĩ về văn chương bị rẻ rúng, chữ nghĩa thánh hiền bị xem nhẹ, coi khinh Mớ văn chương tháng lụi năm tàn. Câu thơ gợi nhắc ta nhớ tới một ý thơ khác của Tản Đà khi ông nói về sự suy tàn của chữ Nho, của đạo luôn thường trong xã hội thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ: “Văn chương hạ giới rẻ như bèo”.
– Khổ thơ cuối là hiện thực đầy suy ngẫm của bậc nam nhi nặng lòng với nước non:
Đèn hiu hắt, tiếng kim ký cách
Mõ sang canh giục khách đòi cơn
Mạch sầu canh vắng như tuôn Nhớ ai nước nước non non bạn tình!
+ Trở về với thực tại, giữa đêm đông, nhà thơ chỉ có ngọn đèn hiu hắt làm bầu bạn. Tiếng kim đồng hồ ký cách, tiéng mõ giục sang canh ngâm dài trong đêm tối càng khắc sâu nỗi u hoài, sầu thảm của thi nhân.
+ Câu thơ cuối làm rõ hơn tâm sự yêu nước thầm kín của bậc nam nhi: Nhớ ai nước nước non non bạn tình. Ai được nhắc tới ở đây có thể không phải là một bạn tình, một con người cụ thể, mà là nỗi nhớ nước non, nỗi khát khao về một non nước độc lập, thanh bình như thưở trước.
- Phân tích một số đặc sắc nghệ thuật và hiệu quả thẩm mĩ của nó.
– Những câu thơ song thất lục bát giàu vần điệu, độc đáo. Mỗi khổ thơ gồm một cặp song thất (7 chữ) và một cặp lục bát. Gieo vần chân xen vần lưng, vần bằng kết hợp vần trắc như ở khổ thứ nhất: mấy – thấy; thay – bay; bay chầy; … Đã dẫn dắt người đọc vào tâm hồn của thi sĩ, ở đó, ta như được chứng kiến sự thao thức, trằn trọc suốt canh thâu của nhân vật trữ tình trong đêm đông dài vô tận. + Nhịp thơ của cặp câu lục chủ yếu nhịp chẵn, lẻ (3/4), ví dụ hai câu:
Lại những kẻ/ chí cao tài thấp
Bước đường đời/ lấp vấp quanh co
Cặp lục bát chủ yếu ngắt nhịp chẵn, ví dụ hai câu sau:
Phong lưu/ rồi đủ/ ấm no Kém ra,/ lưu lạc giang hồ/ cũng thân!
+ Hài thanh đầy dụng ý nghệ thuật, ví dụ ở dòng thơ thứ 2 của khổ thơ thứ nhất có tới 5/7 thanh bằng: Một đêm đông sao thấy dài thay. Câu thơ cứ buồn trĩu xuống bằng những thanh bằng liên tiếp.
Vần nhịp, thanh điệu ấy góp phần tạo nên giọng điệu riêng của bài thơ: tâm sự về thân thế, thời thế đầy u hoài, thương cảm.
+ Đặc biệt, thể thơ song thất lục bát rất phù hợp với việc biểu đạt nội dung của bài thơ là nỗi hoài cảm của nhân vật trữ tình trong một hoàn cảnh cụ thể là một đêm đông giá lạnh mất ngủ suốt năm canh.
– Ngôn ngữ, hình ảnh thơ gần gũi, quen thuộc, nhất là lớp từ láy giàu giá trị biểu cảm như: hiu hắt, chập chờn, lận đận, thẹn thùng,... Sử dụng kết hợp các biện pháp tu từ như biện pháp điệp ngữ, ẩn dụ,… Thành công hơn cả là nghệ thuật điệp đầu cuối tương ứng, bài thơ mở ra và khép lại với những hình ảnh: đèn, kim ký cách giục giờ vừa gợi tả không gian màn đêm hắt hiu, quạnh vắng, thâm u chỉ có ánh đèn mờ hiu hắt; vừa gợi ra thời gian trôi chậm chạp, như một vòng tròn bủa vây nhân vật trữ tình không lối thoát. Qua đó, ẩn chứa tâm trạng quẩn quanh, bế tắc trước thời thế, trước vận nước, mệnh nhà của thi sĩ Tản Đà.
* Đánh giá mở rộng:
– “Đêm đông hoài cảm” là một áng song thất lục bát mẫu mực, vừa đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt vần nhịp, hài thanh; vừa đảm bảo phù hợp với nội dung là tâm trạng sầu buồn triền miên của một nhân vật trữ tình trong một thời gian, không gian hạn hẹp là một đêm đông lạnh giá.
– Liên hệ mở rộng:
Tản Đà sinh ra giữa buổi giao thời của Hán học và Tây học, lại gặp buổi đất nước lâm nguy, nên bản thân ông mang nhiều tâm sự. Chẳng riêng đêm đông mới khiến thi nhân hoài cảm, mà ngay giữa đêm thu trăng sáng vằng vặc cũng khiến ông sinh nổi chán chường như trong bài Muốn làm thằng cuội:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nữa rồi.
Cũng như nỗi u hoài trong “Đêm đông hoài cảm”, đó đều là nỗi buồn trong sáng, lạnh mạnh của một tâm hồn yêu đời, yêu nước, thương dân, nặng lòng với thời thế của thi sĩ nơi núi Tản sông Đà.
Kết bài: Khẳng định ý nghĩa, vai trò tác phẩm và bài học, thông điệp bản thân rút ra.