📘 Tải 100+ tài liệu nghị luận văn học, 100+ đề thi học sinh giỏi ... chỉ 1 Click

Phân tích bài thơ Thời nắng xanh của Trương Nam Hương

Đề bài: Phân tích bài thơ Thời nắng xanh Trương Nam Hương

Nắng trong mắt những ngày thơ bé
cũng xanh mơn như thể lá trầu
bà bổ cau thành tám chiếc thuyền cau
chở sớm chiều tóm tém
hoàng hôn đọng trên môi bà quạnh thẫm
nắng xiên khoai qua lớp vách không cài
bóng bà đổ xuống đất đai
rủ châu chấu cào cào về cháu bắt
rủ rau má rau sam…
vào bát canh ngọt mát
tôi chan lên suốt dọc tuổi thơ mình.
(Trích)

Dàn ý Phân tích bài thơ Thời nắng xanh Trương Nam Hương

I. Mở bài
– Trương Nam Hương là một nhà thơ có giọng thơ dịu dàng, tinh tế, luôn chất chứa những suy tư lặng lẽ và tình cảm chân thành.
– Thơ ông không ồn ào hay kiểu cách, mà nhẹ nhàng đi vào lòng người bằng những hình ảnh gần gũi, thân thương, được chăm chút bằng thứ ngôn ngữ mềm mại, linh hoạt và sáng tạo.
– “Thời nắng xanh” là một thi phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy. Trong bài thơ, ông không chỉ gọi dậy miền ký ức ấu thơ, mà còn khắc họa một hình tượng bà đầy xúc động – tần tảo, bao dung, và luôn là bóng mát che chở tâm hồn cháu.
– Hai khổ thơ đầu trích từ “Thời nắng xanh” là đoạn hồi tưởng đẹp đẽ, ngọt ngào về một thời thơ bé, nơi ánh nắng, khu vườn, liếp vách và bát canh ngọt mát đều gắn liền với hình bóng bà.

Trương Nam Hương là một trong những thi sĩ hiện đại mang đến cho thơ ca Việt Nam một giọng điệu rất riêng – vừa tinh tế, sâu lắng, vừa dịu dàng và thấm đẫm cảm xúc đời thường. Thơ ông là thế giới của những hoài niệm trong trẻo, những miền ký ức tưởng như rất bình dị nhưng lại đủ sức chạm tới những vùng sâu lắng nhất trong tâm hồn người đọc. Trong bài thơ “Thời nắng xanh”, người đọc bắt gặp một dòng hồi tưởng chan chứa yêu thương về người bà – một biểu tượng của tình thân, của sự tảo tần, hiền hậu trong cuộc sống dân dã. Hai khổ đầu của bài thơ như một thước phim quay chậm, ghi lại hình ảnh bà với những thói quen đời thường, với dáng ngồi ăn trầu, với “bát canh ngọt mát” đã làm nên cả một khoảng trời tuổi thơ dịu êm trong trái tim người cháu.

II. Thân bài

– Chủ đề nội dung của đoạn thơ: tình cảm bà cháu ấm áp, tha thiết
– Hình ảnh người bà hiện lên đầy chân thực và xúc động qua những chi tiết bình dị: ăn trầu, bổ cau, bóng bà đổ dài trên đất, liếp vách không cài, bát canh ngọt mát…
– Nhan đề “Thời nắng xanh” gợi cảm giác về một quãng đời tươi đẹp nhất trong tâm hồn người cháu. Nắng ấy không chỉ là nắng thật ngoài vườn mà là ánh sáng của ký ức, của tình bà.
– Nắng được nhìn qua đôi mắt thơ trẻ, nên “xanh mơn như lá trầu”, và người bà tóm tém nhai trầu đã trở thành một phần của ánh nắng ấy, một phần của thời thơ bé.
– Những hình ảnh lao động của bà – bổ cau, đổ bóng trên đất, nấu canh – hiện lên giản dị nhưng lại là biểu tượng cho sự hy sinh, bền bỉ của người phụ nữ nông thôn.
– Không gian sống của bà và cháu là một miền quê thanh bình: vách liếp, luống khoai, châu chấu cào cào, vườn nắng bụi vàng… tất cả như một bức tranh tuổi thơ sống động, đậm chất đồng quê Việt.
– Người bà không chỉ chăm lo đời sống vật chất mà còn tạo nên cả một không gian tinh thần cho đứa cháu lớn lên – một không gian yên ả, trọn vẹn yêu thương.
– Ký ức về bà đọng lại đậm nét nhất ở hình ảnh “bát canh ngọt mát”, thứ không chỉ làm dịu cái đói mà còn dịu cả tâm hồn. Câu thơ: “Tôi chan lên suốt dọc tuổi thơ mình” là điểm nhấn cảm xúc của đoạn thơ. Nó không chỉ là một hành động, mà là sự tri ân, là sự lấp đầy khoảng trống ký ức bằng tình thương.
– Người bà trong thơ Trương Nam Hương là hiện thân của truyền thống, của sự đùm bọc và lặng lẽ cống hiến. Bà giống như hình tượng người bà trong nhiều bài thơ khác như “Bếp lửa” (Bằng Việt), “Tiếng gà trưa” (Xuân Quỳnh), nhưng lại mang một gam màu riêng – nhẹ nhàng, gần gũi và ngập tràn ánh sáng.
– Những hồi ức ấy không chỉ nói lên vẻ đẹp của bà mà còn thể hiện một tâm hồn cháu sâu sắc, biết nâng niu, trân trọng những điều bình dị. Hồi ức ấy đã nuôi lớn nhân cách và tình cảm của nhân vật trữ tình trong suốt hành trình trưởng thành.

– Nghệ thuật thể hiện đặc sắc
– Lời thơ nhẹ nhàng, thấm đẫm yêu thương nhưng không sa vào bi lụy. Từ ngữ giản dị nhưng lại dồn nén cảm xúc, gợi mở hình ảnh rõ nét và giàu sức gợi.
– Nhà thơ sử dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh, điệp từ, hình ảnh dân dã quen thuộc để khơi gợi ký ức sâu lắng: “lá trầu”, “cào cào”, “nắng xiên khoai”, “bát canh”…
– Nhiều câu thơ mang âm hưởng lạ, có cách diễn đạt riêng, gợi ra sự bất ngờ trong liên tưởng nhưng lại rất tự nhiên trong cảm xúc:
“Bà bổ cau thành tám chiếc thuyền cau
Chở sớm chiều tóm tém…”
– Cách ví von hình ảnh quen thuộc như “thuyền cau”, “bụi vàng của nắng”, hay “chan lên suốt dọc tuổi thơ” đã tạo nên tứ thơ lạ, đậm dấu ấn cá nhân.
– Phong cách thơ của Trương Nam Hương trong đoạn trích này là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống và hiện đại, giữa ký ức và cảm xúc, tạo ra chất thơ độc đáo không dễ trộn lẫn.

III. Kết bài

– “Thời nắng xanh” không chỉ là một bài thơ viết về bà, mà còn là một khúc đồng dao của ký ức, nơi mọi đứa cháu đều thấy tuổi thơ mình ẩn hiện đâu đó.
– Qua hình ảnh người bà tảo tần, giàu yêu thương, Trương Nam Hương không chỉ gợi lên sự xúc động mà còn đánh thức trong ta lòng biết ơn, sự trân trọng với những người đã chở che, nuôi nấng ta bằng tất cả những gì bình dị nhất.
– Bài thơ là lời cảm ơn không lời gửi đến người bà thân yêu, và cũng là lời nhắn gửi đến mỗi chúng ta: hãy sống chậm lại một chút, để không lãng quên những bát canh ngọt mát, những nắng xanh thuở nhỏ – nơi ta đã lớn lên trong yên bình và thương nhớ.

“Thời nắng xanh” không chỉ là tiếng nói riêng của nhà thơ Trương Nam Hương dành cho người bà thân yêu, mà còn là tiếng lòng của biết bao người cháu từng lớn lên trong vòng tay ấm áp của bà. Hình ảnh người bà hiện lên qua những chi tiết bình dị nhưng thấm đẫm tình thương và sự bao dung, để lại trong lòng người đọc một ấn tượng nhẹ nhàng mà sâu sắc. Bài thơ như một lời tri ân dịu dàng gửi đến quá khứ – nơi có bóng nắng xanh tuổi thơ, có

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Thời nắng xanh Trương Nam Hương

Âm điệu thơ tự bao giờ cứ ngân vang mãi trong trái tim tôi. Khúc hát ca văn chương mang một sức mạnh diệu kỳ đi sâu vào tiềm thức nơi trái tim người đọc để lại biết bao rung cảm sâu sắc trong lòng những kẻ phiêu lưu du ngoạn cùng ngôn từ. Từ bao đời nay, thi ca luôn hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình đặt chân đến xứ xở của cái đẹp. Song thơ cũng không chỉ là cái đẹp nó còn là “người thư kí trung thành của những trái tim” (Duy bra lay). Ngoài việc là tấm gương phản ánh cuộc sống, thi ca là dòng chảy của tình cảm- nơi thi nhân trải những cảm xúc lên trang giấy trắng chỉ có thể diễn đạt bằng thơ. Quả là như vậy, chỉ khi đến với “Thời nắng xanh” của Trương Nam Hương tôi mới thấm thía sâu sắc thứ tình cảm kì diệu trong thơ qua những hình tượng tưởng gần gũi nhưng được làm mới theo cách riêng dưới góc nhìn của người nghệ sĩ :

Nắng trong mắt những ngày thơ bé
Cũng xanh mơn như thể lá trầu
Bà bổ cau thành tám chiếc thuyền cau
Chở sớm chiều tóm tém

Hoàng hôn đọng trên môi bà quạnh thẫm
Nắng xiên khoai qua liếp vách không cài
Bóng bà đổ xuống đất đai
Rủ châu chấu, cào cào về cháu bắt
Rủ rau má, rau sam

Vào bát canh ngọt mát
Tôi chan lên suốt dọc tuổi thơ mình.

Dù vài câu thơ nhưng thành công neo vào lòng người đọc hình ảnh người bà tần tảo yêu thương con cháu. Giọng thơ tâm tình tha thiết ăm ắp tình cảm chân thành của người cháu dành cho người bà kính yêu.

Bài thơ gây ấn tượng với người đọc từ nhan đề của bài thơ “Nắng thời xanh”. Nắng trong thi ca không còn là hình ảnh mới, từng xuất hiện trong rất nhiều thi phẩm như “ Đây thôn Vĩ Dạ” ( Hàn Mặc Tử )
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Hay nắng xanh cũng từng xuất hiện trong thơ Tố Hữu :
“Bác đã đi rồi sao Bác ơi !
Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời “

Nhưng trong thơ của Trương Nam Hương nắng lại gắn với một “thời xanh”. Phải chăng đó là quãng thời gian hạnh phúc vui vẻ nhất của tác giả trong suốt tuổi thơ của mình. Màu xanh gợi liên tưởng đến một sức sống thanh xuân khoẻ khoắn, bền lâu cùng với dòng chảy vô tình của thời gian. Dường như một phần đời nơi tâm hồn ấy mãi nằm lại với những hồi ức đẹp nhất rực rỡ như ánh nắng của thiên nhiên đất trời. Và thi sĩ cũng dùng hình ảnh nắng lật tứ vẽ nên bức chân dung người bà kính yêu mang vẻ đẹp giản dị truyền thống chân quê:
“Nắng trong mắt những ngày thơ bé
Cũng xanh mơn như thể lá trầu
Bà bổ cau thành tám chiếc thuyền cau
Chở sớm chiều tóm tém
Hoàng hôn đọng trên môi bà quạnh thẫm

Trong mắt của đứa trẻ “nắng” xanh mơn mởn như “lá trầu” . Nhà thơ còn khéo léo kết hợp nghệ thuật so sánh cùng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác hoàn toàn mới mẻ “ nắng” có màu xanh mơn mởn tinh khôi mới mẻ. Hình ảnh thơ đầy sáng tạo khiến câu thơ trở nên sinh động mang đậm dấu ấn sáng tạo riêng của thi sĩ. Hai câu thơ đầu như cánh cửa dẫn lối người đọc đến với người bà hiện lên bình dị trong lao động hàng ngày. Bà bổ cau thành tám chiếc thuyền và giành để thưởng thức sớm chiều. Ngược trở lại dòng chảy văn chương hình ảnh những người bà ăn trầu đã không còn quá xa lạ. “Miếng trầu làm đầu câu chuyện” và nó cũng trở thành hình ảnh gợi nhắc về người bà. Ăn trầu là tập tục ở miền quê đó cũng là truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Lắng nghe trong đôi câu chữ là hình ảnh của người bà mang vẻ đẹp, thói quen sinh hoạt của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Ôi! Chỉ là màu của trầu mà ngỡ cả ráng chiều đọng lại trên vành môi quặng thâm của bà. Nó đã trở thành mảnh kí ức ghim chặt trong nỗi nhớ của người cháu về bà của mình. Một hình ảnh quá đỗi giản dị gần gũi thân quen nhưng bước vào thơ Trương Nam Dương lại dội nên một nỗi nhớ sâu sắc về bóng hình gắn bó với một thời nắng xanh tươi đẹp. Những kỉ niệm về người bà như một cuốn sách tiếp tục đươc lật mở đến không gian mới :

“Nắng xiên khoai qua liếp vách không cài
Bóng bà đổ xuống đất đai
Rủ châu chấu, cào cào về cháu bắt
Rủ rau má, rau sam
Vào bát canh ngọt mát”

Bài thơ được triển khai theo kết cấu đan xen một câu tả hình ảnh “nắng” thiên nhiên và sau đó là những câu thơ xuất hiện hình ảnh người bà của nhân vật trữ tình. Người bà một lần nữa xuất hiện cùng hình ảnh “nắng” trong những luống khoai liếp vách không cài. Nắng hồn nhiên như trẻ con nhảy từ luống khoai nọ đến luống khoai kia. Cả khu vườn rắc đầy bụi vàng của nắng. Hình ảnh thôn quê thanh bình, yên ả hiện lên sống động trước mắt những người thưởng thức. “Xiên” là động từ mạnh chỉ ánh sáng đột ngột, xuyên thẳng xuống. Có lẽ đó là cái nắng nóng gay gắt của những ngày hạ chí nhưng người bà vẫn tiếp tục công việc cày xới :

“Bóng bà đổ xuống đất đai”

Hình ảnh thơ khơi nguồn liên tưởng về những người nông dân chân lấm tay bùn “bán lưng cho đất bán mặt cho trời” để làm nên những hạt lúa mang nặng tinh hoa đất trời, hạt cơm ta có trong mỗi bữa ăn. Người bà của nhà thơ mang dáng dấp của những người nông dân lao động cần cù, vất vả. Nhưng tất cả những gian truân ấy để đổi lấy niềm vui cho đứa cháu thơ “rủ châu chấu cào cào” và cả luống rau ăn ngày còn thiếu thốn đủ điều. Hạnh phúc ấy kết vào bát canh yêu thương ngọt mát. Một thời thơ ấu bình yên bên người bà, dù còn nhiều khó khăn nhưng cháu vẫn có được tuổi thơ trọn vẹn nhất. Tựa như một bát canh ngọt mát có thể làm dịu cơn đói của người lâu ngày chưa ăn thì những kí ức đấy làm bóng mát cho tâm hồn nhân vật trữ tình để khi nhớ lại bật thành thơ dồn nén cảm xúc:

“Tôi chan lên suốt dọc tuổi thơ mình.”

Tất cả những kỉ niệm hồi cháu sống với bà đã hoá thân vào hình ảnh “bát canh” ngọt lành bà cho. Bát canh đầy ăm áp những hạnh phúc giản dị bình yên ấy chan lên “thời nắng xanh” của mình trở thành tuổi thơ không bao giờ quên. Chỉ với một câu thơ mà bao nhiêu phù sa tình cảm lắng đọng xuống đáy sâu trong lòng người đọc về tình cảm của người cháu. Dù trong bài thơ không có một chữ “yêu” nhưng cứ đọc câu thơ hiện lên như cả một bầu trời thương nhớ đến người bà của nhà thơ. Chính tuổi thơ ngọt ngào bên người bà đã nâng đỡ thi sĩ bước trên ngả đường của giấc mơ và khát vọng.

Đôi ba câu thơ nhẹ nhàng nhưng neo đậu vào tâm hồn người đọc rung động đưa ta trở lại với miền đất mang tên kỉ niệm về một thời thương nhớ. Thi sĩ đã phục dựng hình ảnh người bà mang nét đẹp của người phụ nữ truyền thống, chăm chỉ cần cù, chịu thương chịu khó. Dù hoàn cảnh còn thiếu thốn nhưng người bà ấy vẫn yêu thương và mang đến cho đứa cháu những điều tốt đẹp nhất. Tuổi thơ của cháu có “châu chấu, cào cào”, có niềm vui từ bát canh ngọt mát và cả bóng hình của bà chở che. “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim cuộc sống đã ứ đầy” ( La mác tin ), có lẽ tình yêu của người cháu dành cho người bà suốt bao năm không thể kìm nén mà chảy tràn trên ngòi bút thành thơ. Đó là tình cảm chân thành, kính trọng, nhớ thương da diết, giàu tình yêu thương đối với người bà tần tảo của mình. Song thơ hay là “hay cả hồn lẫn xác”, thời nắng xanh đâu chỉ cuốn người đọc vào giai điệu tâm hồn mà còn vào cả thứ âm nhạc diệu kì của ngôn ngữ thơ. Lời thơ giản dị, nhẹ nhàng mà dồn nén tất cả cảm xúc chan chứa từ bên trong. Nghệ thuật so sánh kết hợp với những hình ảnh của cuộc sống quen thuộc “lá trầu”, “cào cào”, “châu chấu” , “bát canh” tạo dựng hình ảnh lên cuộc sống chân quê thanh bình, yên ả nhưng thật gần gũi thân thương trong ký ức. Chắp vá kí ức bạc màu thành thước phim quay chậm sống dậy hồi ức ngọt ngào, hạnh phúc một thời không thể quên.

Hình ảnh người bà trong thi ca là nguồn thi liệu khơi gợi cảm xúc của người nghệ sĩ như “Bếp lửa” của Bằng Việt hay “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh, “Thời nắng xanh của Trương Hương Dương cũng đóng góp một nhìn mới vào dòng chảy của văn chương nghệ thuật. Hình ảnh người bà truyền thống, giàu tình yêu thương, tần tảo, chăm chỉ cần cù sẽ mãi khắc ghi trong lòng người đọc. Tình cảm trân trọng, kính yêu với người bà của thi sĩ sẽ được văn chương lưu giữ vẹn nguyên vượt qua mọi sự biến thiên của lịch sử và đẻ lại trong lòng người đọc dấu lặng không thể nào quên.

 

3/5 - (1 bình chọn)
Câu hỏi sẽ hiện ở đây

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *