ĐỀ 8
CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN (Nguyễn Ngọc Tư)
Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn. Cha tôi tháo cái khung tre chắn dưới sàn ghe, bầy vịt lúc nhúc chen ra, cuống quýt, nháo nhào quẫy ngụp xuống mặt nước váng phèn. Một lớp phèn mới, vàng sẫm quánh lại trên bộ lông của những con vịt đói, nhớp nháp bám trên vai Điền khi nó trầm mình bơi đi cặm cọc, giăng lưới rào bầy vịt lại. Tôi bưng cái cà ràng lên bờ, nhóm củi.
Rồi ngọn lửa hoi hót thở dưới nồi cơm đã lên tim, người đàn bà vẫn còn nằm trên ghe. Ngay cả ý định ngồi dậy cũng xao xác tan mau dưới những tiếng rên dài. Môi chị sưng vểu ra, xanh dờn. Và tay, và chân, và dưới cái áo mà tôi đã đắp cho là một cái áo khác đã bị xé tả tơi phơi những mảng thịt người ta cấu nhéo tím ngắt.
Và những chân tóc trên đầu chị cũng đang tụ máu. Người ta đã lòn tay, ngoay chúng để kéo chị lê lết hết một quãng đường xóm, trước khi dừng chân một chút ở nhà máy chà gạo. Họ giằng ném, họ quăng quật chị trên cái nền vương vãi trấu. Vai nữ chính, một người đàn bà xốc xếch đã lạc giọng, đôi lúc lả đi vì ghen tuông và kiệt sức. Nhưng đám đông rạo rực chung quanh đã vực tinh thần chị ta dậy, họ dùng chân đá với vào cái thân xác tả tơi kia bằng vẻ hằn học, hả hê, quên phứt vụ lúa thất bát cháy khô trên đồng, quên nỗi lo đói no giữa mùa giáp hạt. Cuộc vui hẳn sẽ dài, nếu như không có một ý tưởng mới nảy ra trong cơn phấn khích. Họ dùng dao phay chạt mái tóc dày kia, dục dặc, hì hục như phạt một nắm cỏ cứng và khô. Khi đuôi tóc dứt lìa, được tự do, chị vùng dậy, lao nhanh xuống ghe chúng tôi như một tiếng thét, lăn qua chân tôi, đến chỗ cha, làm đổ những bao trấu cha vừa mới xếp.
Đám người ngơ ngác mấy giây để chấp nhận việc con mồi bỏ chạy. Tôi mất mấy giây để háo hức thấy mình nghĩa hiệp như Lục Vân Tiên, tôi lồm cồm xô ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng, tôi cầm sào chống thục mạng ra giữa sông, mắt không rời đám người đang tràn ra mé bờ chực lao xuống, nhảy nhót điên cuồng. Rồi tiếng chửi rủa chói lói chìm đi, tiếng bầy vịt tao tác kêu dưới sạp chìm đi, trong tôi chỉ có âm thanh của chiếc máy Koler4 nổ khan, rung bần bật dưới tay Điền, khạc ra những đám khói khét lẹt, đen ngòm. Khói trôi về phía sau chúng tôi, mờ nhoè những bóng người đang tuyệt vọng ngó theo, bàn tay nào đó cầm nắm tóc của chị vẫy lên phơ phất phơ phất …
Cha tôi không đóng vai trò gì trong cuộc tháo chạy ấy, ông im lặng, khi đã đi khá xa, cha ra đằng mũi cầm sào. Tôi bò vào trong ghe, lấy áo đắp lên người chị, sao cho che được đôi vú rách bươm và khoảng đùi rướm máu. Chị cười mếu máo, nói cảm ơn bằng mắt và thiếp đi.
Suốt một quãng đường, chị không hề thay đổi thế nằm, im lìm, lạnh ngắt như người chết. Trong ghe chỉ trôi mênh mang những tiếng rên khi dài, khi ngắn, khi thiu thỉu buồn xo, lúc nghe như tiếng nấc nghẹn ngào…
Nhờ vậy mà chúng tôi biết chị còn sống, để đi với chúng tôi gần hết con sông Bìm Bịp, đến cánh đồng hoang vắng này. Điền hơi lo lắng khi nghe chị vẫn còn rên rỉ, nghĩ là chị đã đói, nó hối tôi nấu cơm mau. Nó thấy tiếc vì trên ghe chỉ còn mấy con khô sặt mặn chát, “tui nuốt còn không vô, nói chi…”
(Nguyễn Ngọc Tư, Cánh đồng bất tận, trang 1, NXB Trẻ, 2014)
TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH (Nguyễn Nhật Ánh)
Những vạt đất quanh giếng đá lúc nào cũng ẩm ướt nên cỏ dại quanh năm tốt tươi. Cỏ lá gừng, cỏ xuyến chi mọc lẫn với rau dền, rau sam, thỉnh thoảng chen vào một cây hoa mào gà đỏ tía. Cỏ mọc dày, lan cả lên thêm giếng. Phía xa xa là vạt rau muống, lá sum xuê và xanh ngăn ngắt. Cỏ gà mọc lên chỗ tiếp giáp giữa cỏ và rau. Tôi không biết từ khi nào thắng Tường phát hiện ra chỗ đó. Mọi lần tôi vẫn hái cỏ gà ở chân rào.
Trong khi tôi loay hoay lựa những cọng cỏ gà thật dai thật khỏe, chốc lát đã hái được cả nắm, thằng Tường dường như chưa hái được cọng nào.
Tôi thấy nó ngồi lom khom một chỗ, săm soi cái gì đó trong tay.
– Mày ngồi làm gì đo, sao không hái cỏ gà đi, Tường?
– Anh xem này! – Tường xoay người về phía tôi, chìa tay ra, vẫn ngồi chồm hồm trên hai chân. Tôi nhìn gương mặt rạng ngời của nó, liềm môi hỏi:
– Dế lửa hả mày? – Không.
Tôi lại gần, cúi xuống nhìn, thấy con sâu cuốn chiếu đang nằm co trong lòng bàn tay Tường.
– Ghê quá! – Tôi nhăn mặt
– Mày chơi sâu à?
– Sâu cuốn chiếu mà, anh Hai. Nó hiền khô à. Tôi phun nước bọt phèo phèo.
– Cuốn chiếu cũng là sâu. Mày chơi dơ quá, tao không chơi với mày nữa.
Nó xong, tôi cầm mớ cỏ gà quay vào nhà, mặc Tường mải mê lấy ngón tay khều khều con cuốn chiếu để thích thú ngắm nó sợ hãi cuộn tròn người lại.
Trẻ con thôn quê là bạn của các con vật. Con trâu, con bò, con chó, con mèo, các loại chim chóc và các loại côn trùng. Tôi cũng thế. Tôi có những hộp diễm và những hộp các-tông dùng đẽ nhốt dế, cánh quýt, ve sầu và bọ rãy. Nhưng tôi khác thăng Tường.
Tường hồn nhiên chơi với cá kiến, chuồn chuồn, châu chấu và sâu róm, hiện nay lại đang nuôi một con cóc dưới gậm giường. Cái cách thằng Tường thân thiện với mọi con vật khiến đôi lúc tôi có cảm giác nó hơi khùng khùng. Chỉ với một cái que trên tay, nó có thế say sưa đùa giờn hàng giờ với một con sâu róm ngo ngoe trên thân gỗ mục. Nó bênh vực, mỗi khi tôi bĩu môi vào đám bạn của nó: Anh không biết đó thôi. Nhền nhện giăng tơ để mình có thứ câm máu khi bị đứt tay. Còn chuồn chuồn cản rốn giúp mình biết bơi.
Về tơ nhện thì Tường nói đúng. Trước nay mỗi lẫn đứt tay chảy máu, tôi thường ngậm ngón tay trong miệng rõi ba chân bốn cảng chạy vô nhà kho hoặc chái bếp để tim mạng nhện. Tơ nhện quấn quanh vết đứt, máu ngưng cháy liên, chăng rõ vì sao. Một thời gian dài, đó là thuốc tiên của tuổi thơ lẩm trãy xước của bọn tôi.
Tôi nheo mắt nhìn Tường:
– Mày ngốc quá. Chuồn chuồn căn rõn mà biết bơi á?
– Dạ.
– Ai bảo mày vậy?- Chú Đàn bảo.
– Chú Đàn bảo à. – Tôi hạ giọng, ngập ngừng – Mày nói thật không đấy? Đế tao chạy đi tìm chú Đàn tao hỏi.
– Thật mà.
Tường nói, và nó chạy vụt ra sau vườn.
Lát sau, nó chạy vô với con chuồn chuồn ớt trên tay.
– Anh vén áo lên đi! – Tường nhìn lom lom vô bụng tôi, hào hứng giục.
– Thối. – Tối bước lui một bước – Mày phanh rõn cho nó cần trước đi!
Tường vạch áo, đặt con chuồn chuỗn vào giữa rốn.
Tôi chống tay lên hai đâu gỗi, ngoẹo đầu nhìn. Tôi thãy con chuôn chuỗn đột ngột vếnh đôi cánh mỏng, đuôi cong vòng, chưa kịp nhìn kỹ đã nghe thăng Tường hét lên bài hãi, tay hãp tấp kéo con chuồn chuồn ra xa
– Sao thế? – Tôi giật bãn – Đau lầm à?
Tường cười lòn lên:
– Đau sơ sơ. Như kiến cần thôi.
– Đau sơ sơ mà mày la muốn bê nhà như thế?
Tôi nhìn Tường nghi ngờ, thậm chí tôi thấy có vẻ nó đang ứa nước mắt vi đau.
Cho nên khi Tường chìa con chuồn chuồn cho tôi, nói Tới lượt anh nè, tôi đưa tay gạt phất:
– Tao không chơi trò ngu ngốc này đâu!
Tôi đứng trên bờ theo dỏi, còn thắng Tường dọ dâm khúc suối cạn, tim chỗ nước ngập ngang ngực để tập bơi.
anh em:
Kết quá buối thực tập được đúc kết trong mẫu đối thoại buồn râu sau đó giữa hai
– Bơi được không?
– Được.
– Chìm không?
– Chim.
(Nguyễn Nhật Ánh, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, NXB Trẻ, 2010)
Chú thích:
1.Tác giả Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 tại Đầm Dơi, Cà Mau. Là nữ nhà văn trẻ của Hội nhà văn Việt Nam. Với niềm đam mê viết lách, chị miệt mài viết như một cách giải tỏa và thể nghiệm, chị biết rằng chị muốn viết về những điều gần gũi nhất xung quanh cuộc sống của mình. Giọng văn chị đậm chất Nam bộ, là giọng kể mềm mại mà sâu cay về những cuộc đời éo le, những số phận chìm nổi. Cái chất miền quê sông nước ngấm vào các tác phẩm, thấm đẫm cái tình của làng, của đất, của những con người chân chất hồn hậu nhưng ít nhiều gặp những bất hạnh.
- Tập truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” được xuất bản năm 2005. Trong đó, truyện vừa “Cánh đồng bất tận”được đứng đầu trong một cuộc bình chọn truyện ngắn đặc sắc trên báo Văn nghệ. Vào năm 2006, tập truyện đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Namdành cho tác phẩm xuất sắc. Năm 2007, tác phẩm được dịch ra tiếng Hàn và được nhà xuất bản Asia tại Seoul phát hành.
- Tác giả Nguyễn Nhật Ánh (sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955) là một nam nhà văn người Việt Nam. Được xem là một trong những nhà văn hiện đại xuất sắc nhất Việt Nam hiện nay, ông được biết đến qua nhiều tác phẩm văn học về đề tài tuổi trẻ. Nhiều tác phẩm của ông được độc giả và giới chuyên môn đánh giá cao, đa số đều đã được chuyển thể thành phim.
- Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanhlà một tiểu thuyết dành cho thanh thiếu niên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, xuất bản lần đầu tại Việt Nam vào ngày 9 tháng 12 năm 2010 bởi Nhà xuất bản Trẻ với phần tranh minh họa do Đỗ Hoàng Tường thực hiện. Đây là một trong các truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh. Tác phẩm như một tập nhật ký xoay quanh cuộc sống của những đứa trẻ ở một vùng quê Việt Nam nghèo khó, nổi bật lên là thông điệp về tình anh em, tình làng nghĩa xóm và những tâm tư của tuổi mới lớn. Theo Nguyễn Nhật Ánh, đây là lần đầu tiên ông đưa vào truyện của mình những nhân vật phản diện, đặt ra vấn đề đạo đức như sự vô tâm hay cái ác. Là một trong những quyển sách Việt Nam bán chạy nhất năm 2010.
Anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích và làm rõ sự phong phú của đời sống con người qua hai tác phẩm “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư và “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” của Nguyễn Nhật Ánh.
- Mở bài:
Văn học chính là tấm gương phản chiếu những giá trị nhân văn sâu sắc và sự phong phú của đời sống con người. Mỗi tác phẩm đều chứa đựng những thông điệp về tình yêu, nỗi đau và khát vọng của con người. Đúng vậy, văn học không chỉ là nghệ thuật của ngôn từ mà còn là một tấm gương trong suốt, phản chiếu trọn vẹn bản chất của cuộc sống con người, từ những điều giản dị đến những khát vọng lớn lao. Với chức năng này, nhiều tác phẩm văn học đã trở thành những chiếc cầu nối, đưa người đọc về với những giá trị cốt lõi của cuộc sống. Trong đó, “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” của Nguyễn Nhật Ánh và “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư là hai tác phẩm tiêu biểu, phản ánh sự phong phú của đời sống con người qua những lát cắt khác nhau của xã hội.
- Thân bài:
* Khái quát về nét chung của hai tác phẩm: hoàn cảnh ra đời, đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật, vị trí của tác phẩm trong đời sống văn học…)
+ Khái quát chung
– Văn học không chỉ là nghệ thuật ngôn từ mà còn là một tấm gương phản chiếu những giá trị nhân văn sâu sắc, những khía cạnh phong phú của đời sống con người. Mỗi tác phẩm văn học không chỉ đơn thuần là một bức tranh hiện thực mà còn là sự đúc kết những giá trị nhân văn, những khía cạnh phong phú của đời sống, đồng thời mang tính chất phê phán, nâng cao nhận thức và ý thức xã hội của con người.“Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” của Nguyễn Nhật Ánh: Một câu chuyện nhẹ nhàng, sâu lắng về tuổi thơ, gia đình, và sự trưởng thành. “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư là một tác phẩm hiện thực đầy ám ảnh, khắc họa những nỗi đau, sự cô đơn và khát vọng sống trong bối cảnh miền Tây Nam Bộ.
– Nguyễn Nhật Ánh và tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”: Nguyễn Nhật Ánh là một nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm về tuổi thơ, được yêu thích bởi lối viết giản dị, trong sáng. “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” là một trong những tác phẩm nổi bật của ông, khắc họa tình yêu thương gia đình và những kỷ niệm tuổi thơ đầy hồn nhiên nhưng cũng sâu sắc.
–Nguyễn Ngọc Tư và tác phẩm “Cánh đồng bất tận”: Nguyễn Ngọc Tư là một tác giả trẻ với lối viết hiện thực phê phán, thường xuyên đi sâu vào những góc khuất của cuộc sống con người. “Cánh đồng bất tận” là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện rõ những bi kịch và nỗi đau trong đời sống con người, đặc biệt là trong bối cảnh khắc nghiệt của miền Tây Nam Bộ.
* Những điểm tương đồng giữa hai tác phẩm truyện và nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng ấy
Cả hai tác phẩm, dù được viết với những phong cách và góc nhìn khác nhau, đều cùng chung một mục đích: phản ánh những giá trị nhân văn và sự phong phú của đời sống con người. “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” và “Cánh đồng bất tận” đều khắc họa những tình yêu thương, những nỗi đau và khát vọng của con người, nhưng ở mỗi tác phẩm, những giá trị này lại được thể hiện qua những lăng kính khác nhau. Nếu như “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” nhấn mạnh vào sự trong sáng và những bước trưởng thành của tuổi thơ trong một xã hội bình yên, thì “Cánh đồng bất tận” lại mang đến một cái nhìn thực tế, khắc nghiệt hơn, nơi các nhân vật phải đối diện với những nỗi đau và bi kịch trong cuộc sống.
– Cả hai đều sử dụng bối cảnh quê hương làm nền tảng để kể những câu chuyện về cuộc sống, qua đó làm nổi bật giá trị con người. Ngoài hai tác phẩm trên, ta có thể thấy rằng những tác phẩm như “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng hay “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu cũng mang trong mình những giá trị nhân văn sâu sắc. “Chiếc lược ngà” khắc họa tình cha con thiêng liêng trong bối cảnh chiến tranh, nơi nỗi đau và tình yêu đan xen. “Bến quê” lại là một bài học sâu sắc về những giá trị giản dị mà con người đôi khi quên lãng trong cuộc sống bận rộn. Cả hai tác phẩm đều nhấn mạnh sự phong phú của đời sống con người và giá trị của những tình cảm chân thành, giản dị.
–Nguyên nhân dẫn tới sự tương đồng:
Văn học, với chức năng phản ánh đời sống, đã và đang làm tròn vai trò của mình khi giúp người đọc hiểu sâu hơn về những giá trị nhân văn, về tình yêu, nỗi đau và khát vọng của con người. Qua những tác phẩm như “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” và “Cánh đồng bất tận”, ta có thể thấy rõ sự phong phú và đa dạng của đời sống con người, từ những niềm vui giản dị đến những nỗi đau sâu sắc, từ những khát vọng lớn lao đến những ước mơ nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa.Văn học không chỉ giúp con người thấu hiểu và đồng cảm với nhau hơn, mà còn là nguồn động lực để vượt qua những thử thách trong cuộc sống. Từ đó, văn học trở thành nguồn cảm hứng và ánh sáng dẫn đường cho tâm hồn con người, giúp chúng ta sống đẹp hơn, yêu thương nhiều hơn và kiên cường hơn trước những khó khăn của cuộc đời.
* Những điểm khác biệt giữa hai tác phẩm truyện và điều kiện làm nên sự khác biệt ấy.
-“Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” mang đến một cái nhìn nhẹ nhàng, tinh tế về cuộc sống với sự nhấn mạnh vào những kỷ niệm đẹp và sự trưởng thành của tuổi thơ.
+Tình yêu: Tình yêu gia đình là tình cảm giữa anh em Thiều và Tường, tình yêu thương bảo bọc mà các nhân vật dành cho nhau trong gia đình. Tình bạn là những khoảnh khắc hồn nhiên, vui tươi của tình bạn trong những năm tháng tuổi thơ, tình bạn chân thành, không vụ lợi. Tình yêu quê hương là sự gắn bó với làng quê bình dị, nơi chứa đựng những kỷ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ.
+ Nỗi đau: Nỗi đau từ sự trưởng thành từ những xung đột, mâu thuẫn tâm lý khi lớn lên, những lần nhận ra sự khác biệt giữa ước mơ và thực tế. Nỗi đau từ mất mát: Sự kiện Tường bị thương là một cú sốc lớn, phản ánh sự mong manh của cuộc sống và những vết thương lòng không dễ lành.
+ Khát vọng: Khát vọng về một tuổi thơ vô tư, tràn đầy niềm vui và sự bình yên. Khát vọng của Thiều trong việc bảo vệ em trai và duy trì tình cảm gia đình trong bối cảnh thay đổi của cuộc sống.
+ Sự phong phú của đời sống con người: Bức tranh làng quê Việt Nam với những chi tiết mộc mạc nhưng giàu sức sống, phản ánh đời sống thường nhật đầy tình cảm và giá trị nhân văn. Tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” là một bức tranh tuổi thơ đầy sắc màu, nơi Nguyễn Nhật Ánh đã khéo léo thổi hồn vào những câu chuyện giản dị nhưng sâu lắng. Tình yêu gia đình, tình bạn bè và tình quê hương được ông khắc họa bằng một nét vẽ trong trẻo, nhẹ nhàng nhưng lại thấm đượm những giá trị nhân văn sâu sắc. Theo lý luận về “sự phức tạp của tính cách” trong văn học hiện thực phê phán, các nhân vật trong tác phẩm không phải là những con người phi thường, mà là những con người bình thường với những niềm vui, nỗi buồn và ước mơ giản dị. Tình yêu giữa anh em Thiều và Tường, hay tình bạn của các nhân vật, đều được phản ánh qua những khoảnh khắc hồn nhiên, chân thành và không vụ lợi. Dưới ngòi bút của Nguyễn Nhật Ánh, mỗi chi tiết, mỗi cảm xúc đều được trau chuốt để khắc họa một cách tinh tế những giá trị cốt lõi trong đời sống. Đó là tình yêu thương và sự quan tâm giữa các thành viên trong gia đình, là sự kết nối chặt chẽ giữa con người với con người, và trên hết, là một khát vọng về cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Tuy nhiên, cuộc sống không phải lúc nào cũng là những mảng màu tươi sáng.
–“Cánh đồng bất tận” lại là một bức tranh hiện thực khắc nghiệt, nơi các nhân vật phải đối diện với những nỗi đau và bi kịch trong cuộc sống, qua đó bộc lộ những giá trị nhân văn sâu sắc trong những hoàn cảnh khắc nghiệt.
+ Tình yêu: Tình yêu gia đình phức tạp là mối quan hệ giữa cha và con, giữa chị em, vừa đầy yêu thương nhưng cũng đầy mâu thuẫn, thể hiện sự phức tạp trong tình cảm gia đình. Tình yêu thương của con người với nhau: Những nhân vật như Nương, Sương đều mang trong mình lòng nhân ái, dù họ trải qua nhiều tổn thương.
+ Nỗi đau: Nỗi đau từ sự cô đơn và lạc lõng: Những con người sống trên cánh đồng bất tận, mang theo nỗi cô đơn không lối thoát, nỗi đau từ những mất mát và bị phản bội. Nỗi đau từ sự nghèo khó và những bất công trong xã hội: Cuộc sống khó khăn, sự bất lực trước số phận, nỗi đau do môi trường sống khắc nghiệt mang lại.
+ Khát vọng: Khát vọng tự do là khát vọng thoát khỏi sự ràng buộc của quá khứ đau buồn, mong muốn tìm thấy một nơi an bình. Khát vọng tìm lại ý nghĩa cuộc sống: Những nỗ lực của Nương trong việc duy trì lòng nhân ái và tìm lại sự yên bình trong tâm hồn.
+ Sự phong phú của đời sống con người: Khắc họa một bức tranh đời sống đầy phức tạp và đa diện của con người vùng sông nước miền Tây Nam Bộ, với những bi kịch ẩn chứa trong từng chi tiết nhỏ của đời sống thường ngày. Nếu như “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” là bức tranh tuổi thơ tươi sáng, thì “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư lại là một bức tranh hiện thực đầy ám ảnh, nơi những nỗi đau, sự cô đơn và khát vọng sống hiện lên rõ nét giữa bối cảnh khắc nghiệt của miền Tây Nam Bộ. Lý luận văn học hiện thực phê phán cho rằng, văn học không chỉ mô tả hiện thực mà còn phải phê phán, phản ánh những mâu thuẫn trong đời sống xã hội. Nguyễn Ngọc Tư đã sử dụng ngòi bút sắc sảo để khắc họa những bi kịch của con người trong xã hội hiện đại, đặc biệt là trong một môi trường tự nhiên khắc nghiệt và một xã hội đầy bất công. Những nỗi đau không chỉ đến từ sự cô đơn và lạc lõng, mà còn từ những mất mát, những tổn thương không dễ hàn gắn trong tâm hồn.
* Đánh giá chung về sự tương đồng và khác biệt giữa hai tác phẩm truyện và khẳng định giá trị độc đáo của mỗi tác phẩm
–Văn học thực sự là một tấm gương phản chiếu những giá trị nhân văn và sự phong phú của đời sống con người. Cả “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” và “Cánh đồng bất tận” đều là những tác phẩm xuất sắc, không chỉ bởi nội dung mà còn bởi cách mà chúng phản ánh những giá trị cốt lõi của đời sống con người. Đóng góp của hai tác phẩm trong việc nâng cao nhận thức về nhân văn, đồng thời thể hiện sự đa dạng và phong phú của đời sống qua những lăng kính khác nhau. Đó là khát vọng về tự do, về một cuộc sống tốt đẹp hơn, vượt qua những ràng buộc của quá khứ đau buồn và tìm lại ý nghĩa thực sự của cuộc sống. Nguyễn Ngọc Tư đã khéo léo lồng ghép những giá trị nhân văn vào từng chi tiết nhỏ trong tác phẩm, làm nổi bật lên sự phong phú và phức tạp của đời sống con người.
- Kết bài:
Văn học thực sự là tấm gương phản chiếu những giá trị nhân văn và sự phong phú của đời sống con người, giúp người đọc hiểu sâu hơn về những khía cạnh tâm lý và xã hội trong cuộc sống. Việc thấu hiểu những thông điệp nhân văn trong văn học không chỉ giúp con người sống đẹp hơn, mà còn là nguồn động lực để vượt qua những thử thách trong cuộc sống. Văn học từ đó trở thành nguồn cảm hứng và ánh sáng dẫn đường cho tâm hồn con người.
Bài viết tham khảo
Văn học chính là tấm gương phản chiếu những giá trị nhân văn sâu sắc và sự phong phú của đời sống con người. Mỗi tác phẩm đều chứa đựng những thông điệp về tình yêu, nỗi đau và khát vọng của con người. Đúng vậy, văn học không chỉ là nghệ thuật của ngôn từ mà còn là một tấm gương trong suốt, phản chiếu trọn vẹn bản chất của cuộc sống con người, từ những điều giản dị đến những khát vọng lớn lao. Với chức năng này, nhiều tác phẩm văn học đã trở thành những chiếc cầu nối, đưa người đọc về với những giá trị cốt lõi của cuộc sống. Trong đó, “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” của Nguyễn Nhật Ánh và “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư là hai tác phẩm tiêu biểu, phản ánh sự phong phú của đời sống con người qua những lát cắt khác nhau của xã hội.
Văn học không chỉ là nghệ thuật ngôn từ mà còn là một tấm gương phản chiếu những giá trị nhân văn sâu sắc, những khía cạnh phong phú của đời sống con người. Theo lý luận văn học hiện thực phê phán, tác phẩm văn học phải phản ánh chân thực đời sống và con người trong một bối cảnh lịch sử nhất định. Văn học phản ánh các khía cạnh của con người bao gồm cả những điều tốt đẹp và những mâu thuẫn, bi kịch trong cuộc sống. mỗi tác phẩm văn học không chỉ đơn thuần là một bức tranh hiện thực mà còn là sự đúc kết những giá trị nhân văn, những khía cạnh phong phú của đời sống, đồng thời mang tính chất phê phán, nâng cao nhận thức và ý thức xã hội của con người.“Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” của Nguyễn Nhật Ánh: Một câu chuyện nhẹ nhàng, sâu lắng về tuổi thơ, gia đình, và sự trưởng thành. “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư: Một tác phẩm hiện thực đầy ám ảnh, khắc họa những nỗi đau, sự cô đơn và khát vọng sống trong bối cảnh miền Tây Nam Bộ.
Nguyễn Nhật Ánh và tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”: Nguyễn Nhật Ánh là một nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm về tuổi thơ, được yêu thích bởi lối viết giản dị, trong sáng. “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” là một trong những tác phẩm nổi bật của ông, khắc họa tình yêu thương gia đình và những kỷ niệm tuổi thơ đầy hồn nhiên nhưng cũng sâu sắc. Nguyễn Ngọc Tư và tác phẩm “Cánh đồng bất tận”: Nguyễn Ngọc Tư là một tác giả trẻ với lối viết hiện thực phê phán, thường xuyên đi sâu vào những góc khuất của cuộc sống con người. “Cánh đồng bất tận” là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện rõ những bi kịch và nỗi đau trong đời sống con người, đặc biệt là trong bối cảnh khắc nghiệt của miền Tây Nam Bộ.
Cả hai tác phẩm, dù được viết với những phong cách và góc nhìn khác nhau, đều cùng chung một mục đích: phản ánh những giá trị nhân văn và sự phong phú của đời sống con người. “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” và “Cánh đồng bất tận” đều khắc họa những tình yêu thương, những nỗi đau và khát vọng của con người, nhưng ở mỗi tác phẩm, những giá trị này lại được thể hiện qua những lăng kính khác nhau. Nếu như “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” nhấn mạnh vào sự trong sáng và những bước trưởng thành của tuổi thơ trong một xã hội bình yên, thì “Cánh đồng bất tận” lại mang đến một cái nhìn thực tế, khắc nghiệt hơn, nơi các nhân vật phải đối diện với những nỗi đau và bi kịch trong cuộc sống. Cả hai đều sử dụng bối cảnh quê hương làm nền tảng để kể những câu chuyện về cuộc sống, qua đó làm nổi bật giá trị con người. Ngoài hai tác phẩm trên, ta có thể thấy rằng những tác phẩm như “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng hay “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu cũng mang trong mình những giá trị nhân văn sâu sắc. “Chiếc lược ngà” khắc họa tình cha con thiêng liêng trong bối cảnh chiến tranh, nơi nỗi đau và tình yêu đan xen. “Bến quê” lại là một bài học sâu sắc về những giá trị giản dị mà con người đôi khi quên lãng trong cuộc sống bận rộn. Cả hai tác phẩm đều nhấn mạnh sự phong phú của đời sống con người và giá trị của những tình cảm chân thành, giản dị.
Văn học, với chức năng phản ánh đời sống, đã và đang làm tròn vai trò của mình khi giúp người đọc hiểu sâu hơn về những giá trị nhân văn, về tình yêu, nỗi đau và khát vọng của con người. Qua những tác phẩm như “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” và “Cánh đồng bất tận”, ta có thể thấy rõ sự phong phú và đa dạng của đời sống con người, từ những niềm vui giản dị đến những nỗi đau sâu sắc, từ những khát vọng lớn lao đến những ước mơ nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa.Văn học không chỉ giúp con người thấu hiểu và đồng cảm với nhau hơn, mà còn là nguồn động lực để vượt qua những thử thách trong cuộc sống. Từ đó, văn học trở thành nguồn cảm hứng và ánh sáng dẫn đường cho tâm hồn con người, giúp chúng ta sống đẹp hơn, yêu thương nhiều hơn và kiên cường hơn trước những khó khăn của cuộc đời. Tóm lại, việc thấu hiểu và cảm nhận những giá trị nhân văn trong văn học là một yếu tố quan trọng giúp chúng ta sống tốt hơn, biết trân trọng hơn những gì mình đang có và từ đó biết vươn lên để vượt qua những thử thách. Vì vậy mà văn học đã trở thành một tấm gương phản chiếu, giúp chúng ta nhìn lại chính mình và tìm thấy những giá trị đích thực trong cuộc sống.
“Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” mang đến một cái nhìn nhẹ nhàng, tinh tế về cuộc sống với sự nhấn mạnh vào những kỷ niệm đẹp và sự trưởng thành của tuổi thơ. Tình yêu gia đình là tình cảm giữa anh em Thiều và Tường, tình yêu thương bảo bọc mà các nhân vật dành cho nhau trong gia đình. Tình bạn là những khoảnh khắc hồn nhiên, vui tươi của tình bạn trong những năm tháng tuổi thơ, tình bạn chân thành, không vụ lợi. Tình yêu quê hương là sự gắn bó với làng quê bình dị, nơi chứa đựng những kỷ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ. Nỗi đau từ sự trưởng thành từ những xung đột, mâu thuẫn tâm lý khi lớn lên, những lần nhận ra sự khác biệt giữa ước mơ và thực tế. Nỗi đau từ mất mát: Sự kiện Tường bị thương là một cú sốc lớn, phản ánh sự mong manh của cuộc sống và những vết thương lòng không dễ lành. “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” là một câu chuyện đầy xúc cảm về quê hương, về gia đình, về thời niên thiếu của mỗi người. Cậu bé Tường ngây thơ, đầy tình thương trong khi Thiều là người anh trai ích kỷ, hẹp hòi đến tàn nhẫn. Bên cạnh tình cảm anh em với những yêu thương, ghen ghét, đố kỵ, hối tiếc, ăn năn… còn là tình cảm bạn bè, kỷ niệm thời thơ ấu của lũ trẻ nhà quê nghèo ở miền Trung cuối những năm 1980. Ở đó có những cuộc cãi vã, đánh nhau; những trò chơi trẻ con thú vị; những giấc mơ cổ tích công chúa, hoàng tử; những hờn giận vu vơ, rung động đầu đời… Những làng quê nghèo thiệt nhưng đơn sơ, yên bình và nên thơ. Con đường làng rợp bóng tre dưới màn mưa khiến ai cũng phải trầm trồ, xuýt xoa. Cái mùng vải trắng, cái cà-mèn cũ kỹ đựng đồ ăn, đôi quang gánh, chiếc xe bò… đều đẹp vẻ đẹp dung dị. Những khuôn hình bê nguyên xi đời thực nhưng lại trau chuốt, đẹp đến mê hồn, ngơ ngẩn. Cũng có những khuôn hình được chắt lọc đến từng chi tiết, rất tinh tế, mang hơi thở cuộc sống như cảnh cả gia đình co giò ngồi ăn cháo trắng với muối hầm, cánh hoa bươm bướm vàng rời khỏi tay cô bé trong rạp xiếc… Âm nhạc du dương, dễ thương.
Khát vọng về một tuổi thơ vô tư, tràn đầy niềm vui và sự bình yên. Khát vọng của Thiều trong việc bảo vệ em trai và duy trì tình cảm gia đình trong bối cảnh thay đổi của cuộc sống. Sự phong phú của đời sống con người là bức tranh làng quê Việt Nam với những chi tiết mộc mạc nhưng giàu sức sống, phản ánh đời sống thường nhật đầy tình cảm và giá trị nhân văn. Tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” là một bức tranh tuổi thơ đầy sắc màu, nơi Nguyễn Nhật Ánh đã khéo léo thổi hồn vào những câu chuyện giản dị nhưng sâu lắng. Tình yêu gia đình, tình bạn bè và tình quê hương được ông khắc họa bằng một nét vẽ trong trẻo, nhẹ nhàng nhưng lại thấm đượm những giá trị nhân văn sâu sắc. Theo lý luận về “sự phức tạp của tính cách” trong văn học hiện thực phê phán, các nhân vật trong tác phẩm không phải là những con người phi thường, mà là những con người bình thường với những niềm vui, nỗi buồn và ước mơ giản dị. Tình yêu giữa anh em Thiều và Tường, hay tình bạn của các nhân vật, đều được phản ánh qua những khoảnh khắc hồn nhiên, chân thành và không vụ lợi. Chúng ta hẳn ai cũng đã từng có những rung động đầu đời. Đó không chỉ duy là tình yêu mà đến với Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh ta còn nhìn thấy được cảm giác rung động của một đứa trẻ lần đầu tiên biết đến “hoa tay”. Lần đầu tiên biết đến hoa tay thì thằng Thiều – một đứa trẻ hay tò mò và ham vui đã đi khắp làng để đếm và coi hoa tay. Ngoài ra, chúng ta còn được trở về thời xa xưa, thời điểm mà những người yêu nhau thường ngày ngóng, đêm mong nhận được những bức thư tay. Lần đầu tiên viết thư tình Thiều đã lấy cắp hai câu thơ của chú Đàn và chị Vinh, bức thư tình trở nên dí dỏm và đáng yêu hơn bao giờ hết khi bị thầy giáo bắt được:
“Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là chuyện của tôi yêu nàng”
Những cảm xúc dần hình thành trong lòng Thiều, là sự đồng cảm với hoàn cảnh của Mận, xót xa khi biết sự đau khổ mà Mận trải qua và hối hận những khi mình bảo Tường ngu ngốc, lúc Tường vì mình mà chịu đòn hay lúc trêu đùa người khác. Quan trọng nhất chính là lần đầu biết cảm giác thích là như thế nào, lần đầu thấy lúng túng và ngại ngùng khi đối diện với Mận. Hay là khi nghe kể chuyện ma thì hai anh em rùng mình sợ đến nổi bị nhát là chạy toán loạn, đến khi về nhà lại bị đánh vì tội là con trai mà sợ ma. Hơn thế, khi nghe bạn kể về xóm Miễu – nơi có ma cọp thì hai anh em lại tò mò và muốn đi khám phá, dù sợ ma nhưng cứ ra vẻ. Còn về Tường, một trải nghiệm đầu đời có thể nói là không thể quên của Tường chính là trở thành “chim xanh” của chú Đàn và chị Vinh nhưng không may lại bị cha của chị Vinh phát hiện.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Nhật Ánh, mỗi chi tiết, mỗi cảm xúc đều được trau chuốt để khắc họa một cách tinh tế những giá trị cốt lõi trong đời sống. Đó là tình yêu thương và sự quan tâm giữa các thành viên trong gia đình, là sự kết nối chặt chẽ giữa con người với con người, và trên hết, là một khát vọng về cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Tuy nhiên, cuộc sống không phải lúc nào cũng là những mảng màu tươi sáng. Nguyễn Nhật Ánh cũng đã không ngần ngại đưa vào tác phẩm của mình những nỗi đau, những mảng tối của sự trưởng thành. Nỗi đau của Thiều khi nhận ra sự khác biệt giữa giấc mơ và hiện thực, sự hối hận khi gây ra tai nạn cho em trai, hay những khoảnh khắc băn khoăn trước những lựa chọn trong cuộc sống, đều là những biểu hiện của nỗi đau và sự tổn thương trong quá trình trưởng thành. Nhưng chính từ những nỗi đau đó, các nhân vật đã học được cách vượt qua và tìm lại sự cân bằng trong cuộc sống. Đó cũng chính là khát vọng, là mong muốn về một tương lai tươi sáng, nơi các giá trị nhân văn được tôn vinh và gìn giữ. Nguyễn Nhật Ánh không chỉ cho ta trở về thời thơ ấu với bao nhiêu cảm xúc ngổn ngang mà còn gieo rắc vào tâm hồn ta thứ tình cảm nhân văn và cao quý hơn hết đó chính là tình thân. Người cha chấp nhận chịu cảnh tù túng, thậm chí là trốn chui trong cái căn gác xập xệ cùng với căn bệnh quái lạ mà người ta hay gọi là bệnh phong. Đứa con gái ngây ngô và giàu tình cảm như Mận cũng không tiếc bỏ cả những lúc học bài để chăm sóc cho cha.Và rồi một trận hỏa hoạn ập xuống. Rồi một cơn lũ lớn tạt qua. Cuộc sống làng quê thanh bình cũng có lúc bị dọa đến chết khiếp, những cánh đồng bát ngát, những lũy tre xanh, cây đa đầu làng,…tất cả sẽ bị thiêu rụi trong biển lửa hay nhấn chìm trong biển nước. Lướt qua từng chương của quyển sách, chúng ta sẽ bật cười trong vô thức khi nhìn thấy chính mình. Ngôn từ không quá chau chuốt, cảm xúc nhẹ nhàng như rót vào giấc ngủ và một giấc mơ thần tiên hiện ra trong phút chốc. Tất cả là vì có được cơ hội để trở lại thành một đứa trẻ, có được khoảng thời gian vô tư không lo lắng, có khoảng thời gian mà cứ vui thì cười, cứ buồn thì khóc.
“Cánh đồng bất tận” lại là một bức tranh hiện thực khắc nghiệt, nơi các nhân vật phải đối diện với những nỗi đau và bi kịch trong cuộc sống, qua đó bộc lộ những giá trị nhân văn sâu sắc trong những hoàn cảnh khắc nghiệt. Tình yêu gia đình phức tạp là mối quan hệ giữa cha và con, giữa chị em, vừa đầy yêu thương nhưng cũng đầy mâu thuẫn, thể hiện sự phức tạp trong tình cảm gia đình. Tình yêu thương của con người với nhau: Những nhân vật như Nương, Sương đều mang trong mình lòng nhân ái, dù họ trải qua nhiều tổn thương. Nỗi đau từ sự cô đơn và lạc lõng: Những con người sống trên cánh đồng bất tận, mang theo nỗi cô đơn không lối thoát, nỗi đau từ những mất mát và bị phản bội. Nỗi đau từ sự nghèo khó và những bất công trong xã hội: Cuộc sống khó khăn, sự bất lực trước số phận, nỗi đau do môi trường sống khắc nghiệt mang lại. Khát vọng tự do là khát vọng thoát khỏi sự ràng buộc của quá khứ đau buồn, mong muốn tìm thấy một nơi an bình. Khát vọng tìm lại ý nghĩa cuộc sống: Những nỗ lực của Nương trong việc duy trì lòng nhân ái và tìm lại sự yên bình trong tâm hồn.
Sự phong phú của đời sống con người đã khắc họa một bức tranh đời sống đầy phức tạp và đa diện của con người vùng sông nước miền Tây Nam Bộ, với những bi kịch ẩn chứa trong từng chi tiết nhỏ của đời sống thường ngày. Nếu như “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” là bức tranh tuổi thơ tươi sáng, thì “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư lại là một bức tranh hiện thực đầy ám ảnh, nơi những nỗi đau, sự cô đơn và khát vọng sống hiện lên rõ nét giữa bối cảnh khắc nghiệt của miền Tây Nam Bộ. Lý luận văn học hiện thực phê phán cho rằng, văn học không chỉ mô tả hiện thực mà còn phải phê phán, phản ánh những mâu thuẫn trong đời sống xã hội. Nguyễn Ngọc Tư đã sử dụng ngòi bút sắc sảo để khắc họa những bi kịch của con người trong xã hội hiện đại, đặc biệt là trong một môi trường tự nhiên khắc nghiệt và một xã hội đầy bất công. Những nỗi đau không chỉ đến từ sự cô đơn và lạc lõng, mà còn từ những mất mát, những tổn thương không dễ hàn gắn trong tâm hồn. Tình yêu trong “Cánh đồng bất tận” không chỉ là tình yêu thương đơn thuần, mà còn là một thứ tình cảm phức tạp, đa chiều, đầy mâu thuẫn và dằn vặt. Mối quan hệ giữa các nhân vật, đặc biệt là giữa cha và con, giữa chị em, là một sự hòa trộn giữa yêu thương và thù hận, giữa mong muốn bảo vệ và sự bất lực trước hoàn cảnh. Tuy nhiên, dù có phải đối diện với bao nhiêu nỗi đau, khát vọng sống của các nhân vật trong “Cánh đồng bất tận” vẫn luôn mạnh mẽ và kiên cường. Đó là khát vọng về tự do, về một cuộc sống tốt đẹp hơn, vượt qua những ràng buộc của quá khứ đau buồn và tìm lại ý nghĩa thực sự của cuộc sống. Nguyễn Ngọc Tư đã khéo léo lồng ghép những giá trị nhân văn vào từng chi tiết nhỏ trong tác phẩm, làm nổi bật lên sự phong phú và phức tạp của đời sống con người.
Biểu tượng “cánh đồng” trong “Cánh đồng bất tận” chứa đựng những nỗi buồn chan chứa, tuy nhiên nỗi buồn ấy không làm ta bi quan mà cuồn cuộn khát khao được sống, được làm người. Bởi vì lớn hơn hết thảy “cánh đồng” còn là biểu tượng của tình thương, lòng nhân ái, niềm tin và những gì thuộc về giá trị nhân bản. Đó là tình thương của hai chị em với người đàn bà tên Sương, tình thương của người cha đã tạo ra những tội lỗi bởi lòng thù hận với người vợ phụ tình nhưng vẫn lờ mờ cảm thấy trách nhiệm đối với hai đứa con. Cái chi tiết ông mua cho đứa con gái cái nhẫn để dành cho đám cưới cũng như việc “cởi cái áo trên người để đắp lên cho đứa con gái. Ông ta bò quanh nó, tìm bất cứ cái gì để có thể che cơ thể nó dưới ánh mặt trời” cho thấy tình thương và sự hối hận của người làm cha đã sống dậy. Cánh đồng là biểu tượng của tình thương đặc biệt gắn liền với nhân vật Điền trong tác phẩm. Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Ngọc Tư đặt cho nhân vật tên là Điền (nghĩa từ nguyên là ruộng, gần gũi với cánh đồng). Điền là một biểu tượng chứa đựng ẩn ý của tác giả trong quá trình khái quát hoá nghệ thuật. Tác giả đã để nhân vật tôi thổ lộ thế này “Tôi nhớ Điền, bao gồm nhớ một đồng loại (còn tôi là đồng loại còn lại), nhớ một cách trò chuyện (đọc thấu lòng nhau), nhớ người nghe được tiếng tim mình (điều này thì con vịt mù làm được, nhưng nó đã chết rồi), nhớ một người che chở (công việc này đáng nhẽ của ba, má tôi) ”. Đó chính là “đặc trưng” của Điền biết trân trọng, thấu hiểu, có tình yêu thương, ý thức che chở, giúp đỡ người khác nên là biểu tượng cho tình yêu thương, giá trị nhân bản. Cách xây dựng biểu tượng “cánh đồng” ở đây đã dựa trên sự song trùng đặc điểm, tính chất giữa tên truyện và tên nhân vật. Đây không chỉ là nét riêng của truyện ngắn này mà có thể coi là một đặc điểm thi pháp của Nguyễn Ngọc Tư. Như vậy, nội hàm của biểu tượng “cánh đồng” ở đây chính là lòng yêu thương, tình nhân ái, sự trân trọng giá trị con người.
“Cánh đồng” còn biểu trưng cho nỗi nhớ và dòng thời gian trôi chảy, nỗi nhớ về cánh đồng của niềm thương, nỗi đau, của tình yêu quặn thắt nơi người kể chuyện. Cái ý nghĩa biểu trưng này cho đến cuối cùng thiên truyện mới được hé lộ. Bởi Nguyễn Ngọc Tư đã viết cái đề tài mà chị khai thác theo một cách khác. Từ những làng quê yên ổn cầm chừng trong sự đói nghèo, đã có những cuộc ra đi, những con người ra đi đến nơi chốn thị thành rợn ngợp. Chính nó tạo nên một khoảng trống trong tâm hồn người ở lại, một cái gì đó cựa quậy, bất an. Nhưng chị không kể chuyện của người ra đi mà kể câu chuyện của người ở lại trong tiếng gọi khản giọng và cái nhìn khắc khoải. Sự chờ đợi trong khoảng không u buồn, tĩnh mịch vẫn rợn ngợp mênh mông và thấm vào da thịt. Nhưng rồi rốt cuộc, chính họ (những người chờ đợi) lại phải ra đi, không phải do không còn chịu đựng sự ngưng đọng của thời gian, không phải cảm giác bị bỏ rơi mà là cảm giác đã đánh mất hạnh phúc mong manh cần được chăm chút, nâng niu, đánh mất những khao khát bị sự yên ổn cầm chừng che giấu. Họ bước vào cuộc kiếm tìm đau đáu nhưng vô vọng trong khao khát giã từ lưu lạc. Cho nên nỗi nhớ ở đây vừa xót xa vừa thấm thía tình người.Văn học thực sự là một tấm gương phản chiếu những giá trị nhân văn và sự phong phú của đời sống con người. Cả “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” và “Cánh đồng bất tận” đều là những tác phẩm xuất sắc, không chỉ bởi nội dung mà còn bởi cách mà chúng phản ánh những giá trị cốt lõi của đời sống con người. Đóng góp của hai tác phẩm trong việc nâng cao nhận thức về nhân văn, đồng thời thể hiện sự đa dạng và phong phú của đời sống qua những lăng kính khác nhau. “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” viết về tuổi thơ nghèo khó ở một làng quê, bên cạnh đề tài tình yêu quen thuộc, lần đầu tiên Nguyễn Nhật Ánh đưa vào tác phẩm của mình những nhân vật phản diện và đặt ra vấn đề đạo đức như sự vô tâm, cái ác. Có lẽ, nỗi vất vả của kiếp đời mưu sinh đã quá nhọc lòng trên đôi vai bé nhỏ nên những hình ảnh mộc mạc, thân thuộc thế này đã gợi không ít nỗi nhớ, niềm thương. Và bằng những dòng suy nghĩ chân thành, ngôn từ giản dị Nguyễn Nhật Ánh đã vẽ một chuyến đi đưa người đọc trở về thời thơ ấu. Không cần quá phô trương nhưng đủ sâu sắc, không cần quá thâm thúy nhưng đủ để chúng ta có thể nhìn thấy mình ở trong đó.
Văn học thực sự là tấm gương phản chiếu những giá trị nhân văn và sự phong phú của đời sống con người, giúp người đọc hiểu sâu hơn về những khía cạnh tâm lý và xã hội trong cuộc sống. Việc thấu hiểu những thông điệp nhân văn trong văn học không chỉ giúp con người sống đẹp hơn, mà còn là nguồn động lực để vượt qua những thử thách trong cuộc sống. Văn học từ đó trở thành nguồn cảm hứng và ánh sáng dẫn đường cho tâm hồn con người. “Cánh đồng bất tận” mãi mãi cho chúng ta sự thấm thía về tình người, niềm đau và nỗi buồn, mãi mãi để lại trong lòng chúng ta một giọng điệu Nguyễn Ngọc Tư dung dị mà thấu đáo, thẩm thấu lắng sâu vào bên trong với dòng cảm xúc suy tư bất tận nhưng cũng không kém phần tinh tế và nhạy cảm trước những biến thái của cuộc đời. Nguyễn Ngọc Tư muốn cảnh báo con người về ý nghĩa thực sự của cuộc sống. Không gào thét, không ồn ào nhưng nếu đọc tác phẩm mà bên trong bạn không quặn thắt những đợt sóng về nỗi niềm băn khoăn về kiếp sống làm người xin bạn hãy đọc lại tác phẩm với một cái đầu tỉnh táo và nhân văn.