📘 Tải 100+ tài liệu nghị luận văn học, 100+ đề thi học sinh giỏi ... chỉ 1 Click

Làm nổi bật ý kiến Nhân vật chính trong bi kịch thường phải trải qua những trạng thái giằng xé bế tắc

ĐỀ BÀI:  Có ý kiến cho rằng: “Nhân vật chính trong bi kịch thường phải trải qua những trạng thái giằng xé, bế tắc, rơi vào tình huống hết sức nặng nề…”

(Ngữ văn 11- Kết nối tri thức và cuộc sống, Tập một, NXB Giáo dục VN, 2023, tr126)

Bằng trải nghiệm văn học, anh/chị hãy làm nổi bật ý kiến trên.

GỢI Ý

MỞ BÀI:

 – Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Đặc điểm của nhân vật trong bi kịch

– Trích dẫn ý kiến.

Nếu cái thần của âm nhạc là giai điệu, của hội họa là đường nét và màu sắc thì cái thần của văn chương chính là ở hình tượng nhân vật. Song những tác phẩm văn học chỉ xây dựng nên những hình tượng về con người thì đó chưa hẳn là một tác phẩm vô giá mà “nhân vật là phương tiện để phản ánh đời sống, khái quát hiện thực. Chức năng của nhân vật là khái quát những quy luật của cuộc sống và của con người, thể hiện những hiểu biết, những ước mơ, kì vọng về đời sống”. Tuy nhiên, ở mỗi thể loại của văn học, nhân vật lại có những đặc điểm khác nhau. Bàn về nhân vật trong bi kịch, có ý kiến cho rằng: “Nhân vật chính trong bi kịch thường phải trải qua những trạng thái giằng xé, bế tắc, rơi vào tình huống hết sức nặng nề…”

THÂN BÀI

2.1. Giải thích

– Bi kịch là thể loại về kịch tập trung khai thác những xung đột gay gắt giữa khát vọng cao đẹp của con người với tình thế bi đát của thực tại, dẫn tới sự thảm bằng cái chết của nhân vật.

– “Nhân vật chính trong bi kịch”:  là nhân vật có những phẩm chất, năng lực vượt trội, có khát vọng và lí tưởng đẹp đẽ  nhưng “thường phải trải qua những trạng thái giằng xé, bế tắc, rơi vào tình huống hết sức nặng nề…”: phải đối đầu với mâu thuẫn xung đột không thể hóa giải hoặc sai lầm của chính bản thân và vì thế phải chấp nhận thất bại hoặc cái chết bi thảm như một tất yếu.

=> Ý kiến nêu đặc điểm của nhân vật chính trong bi kịch: rơi vào những bi kịch lớn, oái oăm, không thể giải quyết được hoặc phải trả giá bằng cả cả tính mạng.

2.2. Bàn luận

          Ý kiến xuất phát từ đặc trưng của bi kịch khắc hoạ cuộc sống bằng các hành động kịch, thông qua các xung đột tính cách xảy ra trong quá trình xung đột xã hội, được khái quát và trình bày trong một cốt truyện chặt chẽ với độ dài thời gian không quá lớn. vì vậy nhân vật không được khắc họa ở nhiều góc cạnh tỉ mỉ như nhân vật trong tự phẩm tự sự. Bi kịch tập trung vào miêu tả nhân vật trong những mâu thuẫn, xung đột giằng xé không thể giải quyết được. Nhân vật rơi vào bi kịch mà nhiều khi tự bản thân cũng không thể lí giải được

2.3. Chứng minh: HS chọn một nhân vật trong bi kịch để chứng minh.

2.3.1. Bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích kịch “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” (Trích “Vũ Như Tô”).

* Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, đoạn trích, nhân vật:

– Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và có đóng góp nổi bật nhất ở thể loại tiểu thuyết và kịch. Bình sinh, ông luôn khao khát viết được những tác phẩm có quy mô lớn, dựng lên được những bức tranh, những hình tượng hoành tráng về lịch sử bi hùng của dân tộc; khao khát nói lên được những vấn đề có tầm triết lí sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật. Văn phong của ông vừa giản dị, trong sáng, vừa đôn hậu, thâm trầm, sâu sắc…

– Vở kịch “Vũ Như Tô” được viết xong vào mùa hè năm 1941, đề tựa tháng 6 – 1942. Đây là vở bi kịch lich sử năm hồi viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 – 1517, dưới triều Lê Tương Dực.

Nhân vật Vũ Như Tô: là nhân vật chính của vở kịch. Đó là một người nghệ sĩ tài ba, hiện thân cho niềm khát khao và đam mê sáng tạo Cái Đẹp. Nhưng trong một hoàn cảnh cụ thể, cái đẹp ấy thành ra phù phiếm, nó sang trọng siêu đẳng thậm chí “cao cả và đẫm máu” như một “bông hoa ác”. Vì thế, đi tận cùng niềm đam mê khao khát ấy, Vũ Như Tô tất phải đối mặt với bi kịch đau đớn của đời mình.

+ Bi kịch của Vũ Như Tô: vốn là một nghệ sĩ chân chính, có tài năng, Vũ Như Tô có khát vọng nghệ thuật cao cả, song lại rơi vào một mẫu thuẫn không thể hóa giải nổi: mâu thuẫn giữa tài năng, ước vọng cao cả, niềm khao khát và đam mê sáng tạo nghệ thuật với thực tế phũ phàng, ngang trái của xã hội.

* Phân tích bi kịch của Vũ Như Tô

– Vẻ đẹp của Vũ Như Tô:

+ Có tài năng: là một kiến trúc sư tài ba “ngàn năm chưa dễ có một”. Vũ Như Tô có thể “sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân, có thể xây dựng những lâu đài caocar, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ”…

+ Có khát vọng cao cả, lớn lao: “đem hết tài ra xây cho nòi giống một tòa đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hóa công”

+ Có bản lĩnh cứng cỏi, mạnh mẽ: không chịu khuất phục trước cường quyền, không bỏ trồn khi xảy ra loạn lạc mà khiên quyết bảo vệ Cửu Trùng Đài: “người quân tử không bao giờ sợ chết. Mà vạn nhất có chết, thì cũng phải cho mọi người biết rằng công việc của mình quang minh chính đại”.

– Thực tế đời sống:

+ Mục đích và bản chất của tầng lớp vua quan: Lê Tương Dực cũng khao khát xây Cửu Trùng Đài song không phải là để tạo cho đất nước một công trình nghệ thuật mà đơn giản là để làm nơi vui chơi, hưởng lạc. Đài Cửu Trùng trong mục đích của Lê Tương Dực chính là hiện thân của cuộc sống xa hoa đầy lạc thú. Nó sẽ tiêu tốn tiền công khố, bòn rút mồ hôi xương máu của nhân dân.

+ Cuộc sống của nhân dân khi Cửu Trùng Đài được xây dựng: vô cùng lầm than khổ cực. Tình cảnh khốn khổ ấy tất sẽ sinh biến loạn: khi quân phản nghịch nổi lên, thợ xây Cửu Trùng Đài quá nửa theo về quân địch.

– Bi kịch của Vũ Như Tô:

+ Bi kịch bị hiểu lầm và kết tội: vì mượn tay Lê Tương Dực để thực hiện khát vọng nghệ thuật của mình nên Vũ Như Tô bị đánh đồng với kẻ xa hoa tàn ác, với tên hôn quân bạo chúa, bị coi là kẻ gây tội ác: “Ai cũng cho ông là thủ phạm…”. Trong hoàn cảnh ấy, cả Vũ Như Tô và Cửu Trùng Đài đã trở thành mục tiêu của sự oán giận, trở thành đối tượng để nhân dân và quân phiến loạn tàn phá, hủy hoại.

+ Bị vỡ mộng: Cho đến phút cuối cùng, Vũ Như Tô cũng không thể hiểu và không thể tin rằng việc mình làm là trái với quyền lợi của nhân dân, vẫn một mực khẳng định mình không có tội và không thể hiểu vì sao dân chúng lại nổi lên phá Cửu Trùng Đài, không hiểu vì sao xây Cửu Trùng Đài lại là việc làm hại nước, hại dân. Khi Cửu Trùng Đài bị đốt cháy cũng là lúc Vũ Như Tô vỡ mộng, bừng tỉnh, đau đớn đến tuyệt vọng: “Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài”

* Nguyên nhân và ý nghĩa của bi kịch

– Nguyên nhân: Do Vũ Như Tô quá đắm chìm trong niềm đam mê cái đẹp nên đã mơ mộng, ảo tưởng khi mượn tay Lê Tương Dực để xây Cửu Trùng Đài. Khát vọng nghệ thuật của ông là cao đẹp nhưng lại bị đặt nhầm chỗ, lầm thời và xa rời thực tế nên phải trả giá bằng cả sinh mạng và cả công trình nghệ thuật. Vũ Như Tô là hiện thân của tài năng, nhân cách và hoài bão lớn lao nhưng vì đi ngược lại với quyền lợi trực tiếp của nhân dân nên đã lâm vào bi kịch.

– Ý nghĩa: thể hiện vấn đề sâu sắc và có ý nghĩa muôn thuở về cái đẹp, về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ và nhân dân, giữa những khát vọng nghệ thuật muôn thuở với quyền lợi trực tiếp của quần chúng.

+ Tài năng, khát vọng nghệ thuật của người nghệ sĩ rất đáng trân trọng song họ cần phải gắn bó với nhân dân, nghệ thuật chân chính phải xuất phát từ mục đích vì cuộc sống, vì con người. Chỉ khi nào giải quyết hài hòa quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, giữa người nghệ sĩ và nhân dân thì nghệ thuật mới có cơ hội tồn tại và phát triển.

* Đánh giá

– Bằng một ngôn ngữ kịch có tính tổng hợp rất cao, nhà văn đã đồng thời khắc họa tính cách và miêu tả sâu sắc bi kịch của Vũ Như Tô.

– Vũ Như Tô chính là điển hình của mẫu nghệ sĩ có tài năng, có nhân cách, có hoài bão lớn lao, đẹp đẽ. Song vì xa rời thực tế, ảo tưởng nên đã rơi vào bi kịch. Bi kịch của Vũ Như Tô có ý nghĩa như một bài học thức tỉnh những người nghệ sĩ đồng bệnh với ông.

2.3.2. Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba trong vở kịch “Hồn Trương ba, da hàng thịt” (Lưu Quang Vũ)

* Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, nhân vật:

– Lưu Quang Vũ là “hiện tượng” đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 của thế kỉ XX, một trong những nhà soạn kịch tài năng của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Kịch của Lưu Quang Vũ là những trăn trở về lẽ sống, lẽ làm người, là khát vọng được là mình, là “tôi” trong cuộc đời và nghệ thuật để hòa mình và dâng hiến. Kịch Lưu Quang Vũ đề cập đến những vấn đề thời sự của cuộc sống hang ngày, nhiệt hứng công dân về trách nhiệm của người cầm bút trong cuộc đấu tranh vì tiến bộ xã hội. Sức hấp dẫn của kịch Lưu Quang Vũ còn là chiều sâu những giá trị muôn thuở được thể hiện qua ngôn ngữ kịch vừa đời thường, vừa thấm đẫm chất thơ cùng màu sắc triết lí nhân sinh.

– Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt: Viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới được công chiếu. Công cuộc đổi mới đất nước đã làm thay đổi đời sống xã hội và đời sống văn học. Từ một câu chuyện cổ dân gian, nhà văn Lưu Quang Vũ đã sáng tạo thành vở kịch nói hiện đại và qua đó gửi gắm nhiều tư tưởng, triết lí nhân sinh sâu sắc.

– Nhân vật Hồn Trương Ba: Là nhân vật chính của vở kịch. Hồn Trương Ba rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn khi phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”

+ Bi kịch của Hồn Trương Ba: Để được tiếp tục sống, Hồn Trương Ba buộc phải trú nhờ trong thân xác anh hàng thịt. Trong thân xác “kềnh càng thô lỗ” đó, Hồn Trương Ba cao khiết, trong sạch có khả năng bị sai khiến, tha hóa. Hoàn cảnh ấy làm nảy sinh bi kịch của Hồn Trương Ba: không còn được sống với con người thực của mình; hoàn toàn phụ thuộc vào Xác hàng thịt và bị nó sai khiến.

* Phân tích bi kịch của Hồn Trương Ba khi phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.

– Sự tha hóa của Hồn Trương Ba trong hoàn cảnh phải sống nhờ thân xác anh hàng thịt:

+ Xác hàng thịt đã chỉ rõ sự tha hóa không tránh khỏi của Hồn Trương Ba khi dựa vào nó để tồn tại: “Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. Ông nhìn ngắm trời đất , cây cối, người thân,… (…) ông cảm nhận thế giới này qua các giác quan của tôi”; “Xác hàng thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của ông!”. Thực chất , khi phải chấp nhận hoàn cảnh trớ trêu, nghiệt ngã để tiếp tục duy trì sự sống, Hồn Trương Ba hầu như không còn được sống theo ý muốn của mình. Linh hồn ông hoàn toàn lệ thuộc vào những yếu tố vật chất của thể xác, tồn tại qua thân xác – cái thân xác không phải của mình.

+ Sự tha hóa của Hồn Trương Ba được thể hiện trên nhiều bình diện: ăn những món “tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi và đủ các thứ thú vị khác theo khẩu vị của Xác hàng thịt”, “tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại…” khi đứng cạnh vợ anh hàng thịt…; không dạy con bằng những lời khuyên bảo nhẹ nhàng như trước đây mà tát thằng con “tóe máu mồm máu mũi” bằng bàn tay đồ tể; người làm vườn khéo léo khi xưa giờ trở nên vụng về: “bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non”  khi chiết cây cam, “chân ông to bè như cái xẻng giẫm nát cả cây sâm quý mới ươm”; ông “làm gãy cả cái nan, rách cả giấy, hỏng mất cái diều đẹp mà cu Tị rất quý…”

Như vậy, khi sống trong thân xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba đã bị cái thân xác ấy đồng hóa, lôi kéo. Bi kịch của Hồn Trương Ba là lời cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, thắng thế, lấn át hủy hoại những giá trị đẹp đẽ, cao quý.

– Tâm trạng đau khổ, tuyệt vọng của Hồn Trương Ba trước sự tha hóa của bản thân: Nhận thức được sự tha hóa của mình, Hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ. Khi đối diện với những người ông yêu thương và đã từng yêu thương ông, Hồn Trương Ba càng nhận ra sự đau khổ mà mình đã gây cho họ và cũng thấy rõ hơn tình trạng tuyệt vọng của mình.

+ Vì ông mà tất cả những người thân yêu nhất đều phải khóc. Người vợ yêu thương rưng rưng trong dòng nước mắt tủi thân tủi phận, chua chát, dằn dỗi. Đứa cháu gái vỡ òa trong tiếng khóc tức tưởi không hiểu sao ông nội thân yêu lại trở thành một người “xấu lắm, ác lắm”. Chị con dâu – người thương và hiểu ông nhất, bàng hoàng trong dòng nước mắt sẻ chia và bế tắc, muốn thương, muốn níu giữ hình ảnh của thầy mà không biết phải làm sao.

+ Vì ông mà nhà cửa tan hoang. Con trai định bán khu vườn để mở cửa hàng thịt, vợ ông định bỏ đi thật xa để ông được thảnh thơi với cô vợ hàng thịt.

+ Những nỗi niềm ấy của người thân đã khẳng định sự tha hóa đáng buồn, đáng thương và cũng đáng sợ, đáng ghét của Hồn Trương Ba khi phải sống nhờ vào thân xác anh hàng thịt; đồng thời cũng tô đậm thêm nỗi đau khổ, tuyệt vọng của Hồn Trương Ba khi ý thức sâu sắc bi kịch đánh mất mình. Ông “thẫn thờ’ ôm đầu bế tắc, ông “cầu cứu” đứa cháu gái, ông “run rẩy” trong nỗi đau, ông “lặng ngắt như tảng đá” để rồi nhận thấy “Mày đã thắng rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm đủ mọi cách để lấn át ta”. Một sự vỡ lẽ vừa bàng hoàng, vừa chua chát.

=> Với tình huống phát triển tự nhiên, hợp lí, ngôn ngữ giàu triết lí…, Lưu Quang Vũ đã thành công trong việc thể hiện bi kịch của Hồn Trương Ba khi phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Qua đó, nhà văn gửi đến người đọc những thông điệp sâu sắc: Cuộc sống thật đáng quý nhưng không thể sống bằng mọi giá; Con người chỉ sống thực sự hạnh phúc và có ý nghĩa khi được sống là chính mình;

Đánh giá, mở rộng

          Làm nên một vở bi kịch có giá trị cần nhiều yếu tố, trong đó nhân vật có vai trò quan trọng nhất. Do vậy nhà viết kịch cần phải chú tâm trong việc đặt nhân vật chính vào những mẫu thuẫn, xung đột căng thẳng để bật lên tư tưởng chủ đề của vở kịch. Người đọc khi tìm hiểu bi kịch cần phải tìm hiểu mẫu thuẫn, xung đột mà nhân vật phải trải qua.

KẾT BÀI: Khẳng định lại vấn đề.

Nguyên Ngọc cho rằng: “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người”. Bằng việc miêu tả bi kịch của nhân vật và cách nhân vật giải quyết bi kịch ấy, nhà soạn kịch đã tìm các níu giữ tính người cho con người. Đó là lí do làm nên sức hấp dẫn của các vở bi kịch.

Yêu thích

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *