ĐỀ LUYỆN 01
Về thể tùy bút, có ý kiến cho rằng: đây là thể loại có “tính chủ quan, tính trữ tình rất đậm, nhân vật chính là “cái tôi” của nhà văn. Cho nên sự hấp dẫn của tùy bút chủ yếu là sự hấp dẫn của “cái tôi” ấy”. Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên bằng việc phân tích “cái tôi” của một tác giả tùy bút mà anh/chị thích. |
GỢI Ý
1. MỞ BÀI: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: “cái tôi” của nhà văn trong kí.
2. THÂN BÀI:
2.1. Giải thích:
– Tùy bút là văn xuôi trữ tình thuộc thể kí – một loại tác phẩm tự sự phi hư cấu. Tùy bút ghi chép sự kiện một cách tự do những suy nghĩ, cảm xúc mang màu sắc cá nhân của người viết về con người và sự việc.
– Vì vậy “tính chủ quan, tính trữ tình rất đậm” và tùy bút thường thể hiện rõ “cái tôi” độc đáo, cũng như tầm hồn và tình cảm của tác giả.
=> Ý kiến nêu đặc điểm nổi bật của thể tùy bút mà thể hiện “cái tôi” của nhà văn.
– “Cái tôi” trữ tình là một thuật ngữ thuộc lĩnh vực Lý luận Văn học, chỉ tâm trạng, cảm xúc, cảm nhận của tác giả, là tâm hồn của riêng tác giả trước hiện thực khách quan. Qua cái tôi trữ tình, người đọc có thể cảm nhận được những suy nghĩ, tư tưởng và quan niệm…của tác giả trước cuộc đời.
2.2. Chứng minh: HS chọn 01 bài kí, phân tích “cái tôi” của nhà văn. Ví dụ “cái tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bài tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” hoặc “cái tôi” của Nguyễn Tuân qua bài tùy bút “Người lái đò sông Đà”.
2.2.1. “Cái tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bài tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
*/ Giới thiệu khái quát về Hoàng Phủ Ngọc Tường, tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
– Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có phong cách độc đáo và sở trường về thể bút kí, tuỳ bút. Lời văn của HPNT được cấu tạo bởi hệ thống ngôn từ nghệ thuật sang trọng, ám ảnh, đậm chất trữ tình của cái tôi uyên bác, tài hoa.
– Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết năm 1981, khi tác giả đã sống bên bờ sông Hương, sống trong lòng Huế hơn 40 năm trời, tình yêu máu thịt đối với quê hương cứ lớn lên từng ngày và nó hiện hữu ở mọi thời gian, mọi không gian. Khi tác giả ngồi đọc “truyện Kiều” giữa mùa thu, trong một khu vườn xưa cổ, nơi có những loài hoa đang nở, trái cây đang chín, yên tĩnh và khoáng đạt – khu vườn tọa lạc trên vùng đất mà Nguyễn Du từng sống nên thiên nhiên của “mảnh đất Kinh – xưa” đã in bóng trong thơ Nguyễn, ngược lại sông Hương và Huế đã gợi cho tác giả hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng: Kim- Kiều.
*/ “Cái tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bài kí: Hình tượng “cái tôi”Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông?: Là một “cái tôi’’ tài hoa, uyên bác, giàu tình cảm và trí tưởng tượng lãng mạn, gắn bó và say mê với cái đẹp của cảnh sắc và con người xứ Huế.
– Một cái “tôi” uyên bác với vốn tri thức, vốn sống phong phú, đa dạng, sâu sắc. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng vốn kiến thức, hiểu biết từ nhiều lĩnh vực, nhiều phương diện khác nhau như địa lí, lịch sử, thơ ca, âm nhạc… cùng với vốn sống, sự trải nghiệm thực tế để cảm nhận vẻ đẹp của dòng sông Hương, của mảnh đất, con người xứ Huế. (Ví dụ: vốn tri thức về địa lí trong cách miêu tả tỉ mỉ, chính xác dòng chảy của Hương Giang qua những địa danh khác nhau ; vốn kiến thức về lịch sử khi viết về sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử từ thời xa xưa khi còn là đất nước các vua Hùng…; vốn văn hóa khi khám phá vẻ đẹp của sông Hương và xứ Huế ở phương diện văn hóa….).
– Một cái “tôi” tài hoa, tinh tế, lãng mạn với trí tưởng tượng bay bổng
+ Cái nhìn mang tính phát hiện về một dòng sông vốn đã trở thành niềm cảm hứng, đề tài của nhiều người nghệ sĩ: Sông Hương được khám phá từ nhiều góc nhìn, trong các mối quan hệ với địa lí, lịch sử, văn hóa, trong mối quan hệ với cuộc đời… Từ đó, dòng sông hiện lên với vẻ đẹp phong phú: Khi thì mãnh liệt, phóng khoáng, man dại, hừng hực sức sống; khi thì dịu dàng, đắm say, mơ màng; lúc lại trầm mặc cổ kính, sâu lắng…Đặc biệt, dòng sông luôn được hình dung như một người con gái đẹp với nhiều dáng vẻ, nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau.
+ Tài năng nghệ thuật khi miêu tả vẻ đẹp của sông Hương và cảnh sắc, con người xứ Huế: Trí tưởng tượng với những liên tưởng phong phú, bay bổng thể hiện qua các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, ẩn dụ…; ngôn ngữ giàu chất thơ; lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm, tài hoa…
– Một cái “tôi” gắn bó máu thịt với sông Hương, xứ Huế, với quê hương, đất nước
+ Tác giả miêu tả sông Hương bằng một tình yêu đắm say; hiểu thấu nỗi niềm của nó trong từng khúc, từng đoạn của dòng chảy; đưa sông Hương đến với mọi người với tất cả vẻ đẹp của nó…Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là “người tình mong đợi” của sông Hương.
+ Từ tình yêu sông Hương, tác giả cũng thể hiện tình yêu, sự gắn bó thiết tha với con người và văn hóa xứ Huế.
+ Trách nhiệm, lòng tự hào của một công dân đối với đất nước khiến Hoàng Phủ lật từng trang lịch sử, giở từng trang địa lí, tìm hiểu từng phong tục để viết về sông Hương. Những trang văn của ông chảy vào tâm hồn người đọc tình yêu mê say với dòng sông, với văn hóa, con người xứ Huế để người đọc thêm yêu hơn non sông, đất nước mình.
* Tiểu kết:
– “Cái tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích là sự hội tụ cái tài, cái tâm của nhà văn. Đó là “cái tôi” mang nặng tình cảm yêu thương với dòng sông Hương, với Huế, với quê hương đất nước mình. Đó cũng là “cái tôi” uyên bác
– “Cái tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường được hiện lên nhờ văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa; ngôn từ phong phú, gợi hình, gợi cảm; câu văn giàu nhạc điệu; sử dụng hiệu quả các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, nhân hóa…
2.2.2. “Cái tôi” của Nguyễn Tuân qua tùy bút “Người lái đò Sông Đà”
*/ Giới thiệu khái quát về Nguyễn Tuân, tùy bút “Người lái đò Sông Đà” – Nguyễn Tuân: “là một trong mấy nhà nhà văn lớn mở đường, đắp nền cho văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX”, “suốt đời đi tìm cái Ðẹp, cái Thật” (Nguyễn Ðình Thi), tự nhận mình là người “sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa”. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một giá trị hiển nhiên, gợi nhắc một vùng trời riêng, xôn xao thanh âm ngôn ngữ dân tộc. Sáng tác của ông tồn tại vừa như những giá trị thẩm mỹ độc lập vừa gợi ý, kích thích tìm tòi, sáng tạo nên các giá trị mới.)
– Tùy bút “Người lái đò Sông Đà”: tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Tuân được viết năm 1958 in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960). Tập tùy bút là thành quả đẹp đẽ của chuyến đi lên Tây bắc của nhà văn. Trong chuyến đi đó, ông đã tìm kiếm và phát hiện ra “chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc” đặc biệt là “thứ vàng mười đã qua thử lửa của tâm hồn những người lao động và chiến đấu trên Tây Bắc”. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, tài hoa, uyên bác.
*/ “Cái tôi” của Nguyễn Tuân qua bài tùy bút: Là nhà văn có phong cách nghệ thuật đặc sắc, văn chương Nguyễn Tuân hấp dẫn người đọc bởi “cái tôi” độc đáo thể hiện ở sự tài hoa, uyên bác, sự sắc nhọn và tinh tế của các giác quan, ngôn từ điêu luyện, giàu hình ảnh, cảm xúc…
– “Cái tôi” tài hoa, tinh tế, thể hiện ở sự rung động, niềm say mê của nhà văn trước vẻ đẹp hùng vĩ và mỹ lệ của thiên nhiên đất nước; ở sự phát triển, sự phát hiện và ngợi ca phẩm chất tài hoa, nghệ sĩ của những con người lao động; ở những trang văn đẹp như thơ, như nhạc, như họa. Nhà văn đã thể hiện sông Đà như một sinh thể sống với hai nét tính cách tưởng như đối lập (“hung bạo” và “trữ tình”), để từ đó tấu lên một khúc tráng ca về con sông dũng mãnh ở thượng nguồn, đồng thời ngân nga những thanh âm dịu dàng, trong trẻo, êm ái chốn hạ lưu. Từ đó, nhà văn đã tạo dựng hình ảnh người lái đò sông Đà trong cuộc vượt thác đầy kịch tính và cũng thật ngoạn mục. Nguyễn Tuân tỏ ra hứng thú đặc biệt trong việc khám phá, thể hiện “chất vàng mười” trong tâm hồn con người Tây Bắc.
– “Cái tôi” uyên bác: thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; sự huy động và sử dụng kiến thức của các ngành quân sự, điện ảnh, thể thao,… và các tri thức đời sống một cách linh hoạt, có hiệu quả nhằm thể hiện hình ảnh con Sông Đà và người lái đò một cách chính xác và ấn tượng. Nhà văn đã lựa chọn những chi tiết thật tiêu biểu, điển hình; miêu tả và soi chiếu chúng từ nhiều góc độ kết hợp với những liên tưởng, so sánh bất ngờ và thú vị. Có thể nói, hình ảnh Sông Đà và người lái đò thể hiện công phu, quan sát, miêu tả; khả năng huy động và sử dụng ngôn ngữ hết sức điêu luyện của nhà văn.
– “Cái tôi” tài hoa, uyên bác thể hiện tình yêu quê hương đất nước, tình yêu, cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính đồng thời bộc lộ quan điểm của Nguyễn Tuân viết văn là để khẳng định sự độc đáo của người cầm bút. Thể tùy bút, một nối văn “độc tấu” đã phát huy hiệu quả của nó trong việc bộc lộ “cái tôi” độc đáo của nhà văn.
* “Cái tôi” của Nguyễn Tuân được hiện lên rõ nét nhờ kết cấu kinh hoạt, vận dụng được nhiều tri thức văn hoá và nghệ thuật vào trong tác phẩm. Sử dụng ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ, thú vị; từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao; câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, co duỗi nhịp nhàng
2.3. Đánh giá:
– Ý kiến nêu lên đặc điểm nổi bật của thể tùy bút. Theo Nguyễn Tuân, đó là lối văn “độc tấu”, nghĩa là trong tác phẩm tùy bút, “cái tôi” của người viết là nhân vật trung tâm. Sự hấp dẫn của tùy bút xét cho cùng đó là sự hấp dẫn của “cái tôi” tác giả. Hoàng Phù Ngọc Tường cho rằng điều cốt yếu làm nên sức mạnh của thể tùy bút là “để cho hiện thực cuộc sống chảy qua trái tim người cầm bút như một dòng máu nồng ấm”.
– Ý kiến là bài học cho người sáng tác và tiếp nhận tác phẩm tùy bút.
+ Người viết tùy bút nhất thiết phải thể hiện được “cái tôi” riêng của mình. Vì thế cần phải rèn luyện tài năng, trau dồi vốn sống và tạo được nguồn cảm xúc mãnh liệt với cuộc đời…
+ Người đọc khi tìm hiểu tùy bút, bên cạnh tìm hiểu đối tượng mà tác giả thể hiện cần chú ý tìm hiểu “cái tôi” của người viết. Có như vậy mới có thể thấu hiểu hết cái hay của tác phẩm.
3. KẾT BÀI: Khẳng định lại vấn đề.