ĐỀ LUYỆN 05
Khi nói về hướng tìm tòi nên có ở mỗi người cầm bút chân chính, nhà văn Thạch Lam cho rằng: “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức” (Dẫn theo Vương Trí Nhàn, Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa, NXB Đại học Quốc gia, HN, 2005, trang 294). Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Từ “cái đẹp kín đáo và che lấp” trong đoạn trích tùy bút “Phận hoa bên lề”, Chu Văn Sơn, anh/chị hãy làm sáng tỏ “bài học trông nhìn và thưởng thức” mà nhà văn gửi gắm. Đoạn trích “Phận hoa bên lề” “Đó là loài hoa nở vào cuối năm Đó là loài hoa mọc nơi cuối đất Đó là loài hoa đợi ở cuối đời.” Khi hầu hết các loài hoa trong năm đã khoe sắc phô hương cả rồi, nó mới nở. Nếu xem mỗi niên hoa như một dãy dằng dặc, xếp hàng đợi đến lượt nở, thì nó đứng ở cuối hàng. Kiên nhẫn, nhún nhường, hay biết phận biết thân ? Thật khó nói. Chỉ biết khi năm hầu tàn, mùa hầu cạn, chẳng còn loài hoa nào tranh chòi nữa, nó mới dâng hoa. Nó nở trong gió bấc mưa phùn, dưới màu mây xám bạc của ngày đông tận. Nhưng không ai đợi nó dịp tất niên. Càng không ai chờ nó cho tân niên. Nó là loài hoa không được chào đón. Nó là loài hoa không biết đến hội hè. Nó không có chỗ trong các bình hoa bày trang trọng tại những chốn cao sang. Cũng không có chỗ trong những vựa hoa, quầy hoa, sạp hoa bày trên phố xá. Không ai đầu tư, không ai khuyến mại. Nó không bao giờ có mặt trong danh sách những thứ hoa cần mua sắm để trang hoàng khánh tiết cho bất cứ kì cuộc nào. Và nó cũng chẳng dám mơ được nằm trên bàn tay tình nhân trao tặng nhau những dịp lễ lạc. Bàn tay chăm thôi còn chả dám mong, nói gì đến bàn tay tình. Có phải bàn tay duy nhất nó được biết đến trong đời là bàn tay cầm nắm nó khi triệt bỏ nó ? Không có chỗ trong vườn nhà. Không bén mảng tới những hoa viên. Nó không có căn cước tại đấy. Có ai cấp thẻ xanh để cho nó quyền cư trú tại đấy đâu. Thảng hoặc có bóng nó vươn hoa ở góc vườn nào, thì nó chỉ được xem như dân lậu, dân liều. Nó thường bị trục xuất trước tiên khỏi những hoa viên, hoa uyển. Họa chăng, chỉ khi vườn đã bỏ hoang, nó mới có hi vọng. Chủ nhân chả còn đoái hoài, các loài khác chả thèm giành giật đất nữa, thì nó mới đến mọc. Nó rón rén mọc trên đất bỏ, đất thí. Dạng nhảy dù. Sống chui. Nó là loài hoa vườn hoang. Ta thường thấy nó ở bên đường. Đúng hơn, nó vẫn ở bên đường mà ta thường không thấy. Nó không phải là địa chỉ cho những ánh mắt thưởng ngoạn kiếm tìm. Từng đoàn xe cứ vút qua. Những ánh mắt vãng cảnh cứ rướn xa. Nhưng điểm nhìn của dòng người thường không đặt vào nó. Nó bị lãng quên ngay trong tầm mắt người đời. Dù ngọn hoa có đâm ngang tầm nhìn, xiên vào nhãn giới, thì cũng thế thôi. Cả khi du khách dừng lại để chụp ảnh, ống kính zoom qua đầu nó là để chớp lấy những cảnh hớp hồn phía xa. Về xem lại, thấy nó lỡ có mặt trong khuôn hình ngoài ý muốn, thì bực mình. Khi in ra, người ta cẩn thận dùng photoshop xóa nó đi, cho hết vướng. Nó là loài hoa bên đường. Nhưng, vương quốc thực sự của nó là miền hoang, là núi đồi gò bãi. Nó là cư dân của những miền đời quên lãng. Lãng quên, đó mới là không gian cho nó, của nó. Một kiếp hoa chung thân chốn lãng quên. Có phải nỗi hoang vu vón lại thành loài hoa ấy. Có phải nó là đứa con tự túc của nỗi hoang vu. Sinh ra nó để tự khuây khỏa, khoảng trống của hoang vu có bớt đi được phần nào không, mà giữa chốn hoang vắng, có bóng nó chập chờn, lại chỉ thấy lòng thêm hoang dại. Nó là hoa lau. (Trích Phận hoa bên lề, Tự tình cùng cái đẹp, Chu Văn Sơn, NXB Hội nhà văn, 2019, tr132-134) |
GỢI Ý
MỞ BÀI
– Dẫn dắt và nêu vấn đề nghị luận; trích dẫn nhận định
– Khẳng định: Qua tùy bút Phận hoa bên lề, Chu Văn Sơn đã phát hiện ra cái đẹp kín đáo và che lấp từ đó đem tới cho người đọc bài học trông nhìn và thưởng thức
“Văn chương mang lại cho chúng ta những cảm xúc mỹ học, giúp chúng ta cảm nhận bí ẩn của tình yêu và nghệ thuật, hướng chúng ta đến những cái đẹp phi vật chất. Văn chương cần cho những ai muốn cuộc sống đẹp hơn”. Thật vậy, văn chương là phương tiện phản ánh cái đẹp mà người nghệ sĩ suốt đời tìm kiếm. Sứ mệnh của họ là tìm thấy những vẻ đẹp độc đáo, tiềm ẩn để rồi đưa vào những trang bản thảo vàng ngọc của mình, giúp người đọc hướng tới những “cảm xúc mỹ học”, cái nhìn thẩm mỹ như nhận định: “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức”. Qua trích đoạn “Phận hoa bên lề” của Chu Văn Sơn, người đọc thấy được bài học trông nhìn và thưởng thức mà nhà văn gửi gắm qua cái đẹp kín đáo và che lấp của một loài hoa bên lề.
THÂN BÀI
Thân bài
* Khái quát chung
– Dẫn dắt: “Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy những ấn tượng đó có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng đó có những hình thức riêng”. Thật vậy, nghệ sĩ “như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt”, luôn đi tìm cái đẹp tiềm ẩn trong cuộc đời để rồi để lại cho đời những thành quả nghệ thuật đặc sắc, những tác phẩm mang dấu ấn sâu đậm.
– Giải thích
+ Cái đẹp kín đáo, che lấp: cái đẹp ẩn đằng sau vẻ bề ngoài gai góc, thô kệch, tầm thường. Cái đẹp đó không đơn giản là cái vẻ dễ thấy bề ngoài mà là cái đẹp tiềm ẩn trong đời sống nội tâm con người, trong sự bằng lặng của cuộc sống. Đó thường là vẻ đẹp của nhân cách, của tình người, khát vọng, sức sống, tài năng… Chỗ không ai ngờ tới: hoàn cảnh, là môi trường không phù hợp, thuận lợi cho cái đẹp. Đây là nơi tưởng chừng cái đẹp không thể xuất hiện, không thể tồn tại. Đem lại cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức: văn chương phải tác động tích cực tới con người, làm phong phú, nâng cao đời sống tinh thần cho con người.
+ Như vậy, nhận định trên đã khẳng định: Sứ mệnh của nhà văn là đi tìm và phát hiện cái đẹp cái khuất lấp ở những nơi tưởng như không thể tồn tại cái đẹp để giúp người đọc có cách nhìn nhận, đánh giá về cuộc sống, con người, biết thưởng thức tác phẩm một cách đúng đắn và có ý nghĩa nhất. Đây là một yêu cầu khắt khe của nghề văn – một nghề đòi hỏi sự khám phá và sáng tạo.
+ Vì sao “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức”?
++ Bên cạnh chức năng nhận thức, chức năng giáo dục thì văn học còn có chức năng thẩm mĩ. Vì vậy đi tìm và phát hiện cái đẹp của cuộc sống chính là sứ mệnh của nhà văn. Nhà văn phải là người tìm tòi để phản ánh hiện thực một cách sâu sắc, toàn diện và phát hiện những giá trị mới. Đồng thời, người nghệ sĩ phải đi tìm, phát hiện vẻ đẹp tiềm ẩn của đối tượng ở nơi tưởng chừng như không thể tồn tại cái đẹp. Bởi nghề văn là nghề đòi hỏi sự sáng tạo.
++ Công việc của nhà văn là giúp người đọc có cái nhìn tinh tế nhạy cảm với cuộc sống, thấy thú vị khi thưởng thức tác phẩm, thưởng thức vẻ đẹp cuộc sống…
++ Muốn làm tốt công việc ấy nhà văn cần phải gắn bó với cuộc sống, con người, có cái nhìn sâu sắc, tinh tế và tài năng trong việc thể hiện cái đẹp tiềm ẩn.
– Giới thiệu Chu Văn Sơn và tùy bút Phận hoa bên lề
+ Chu Văn Sơn được biết đến trước hết là một nhà nghiên cứu, phê bình văn học – một nhà nghiên cứu, phê bình tài năng của nền văn học hiện đại Việt Nam. Bên cạnh đó ông còn là một nhà văn tài hoa với thể loại tùy bút và tản văn. Lối văn Chu Văn Sơn không nặng chất hàn lâm, kinh viện mà khá cởi mở, phóng khoáng với một giọng văn êm dịu, một lối sử dụng ngôn ngữ lịch lãm, sang trọng tạo nên một sức cuốn hút kì lạ đối với người đọc.
+ Tập tùy bút “Tự tình cùng cái đẹp” là di sản cuối cùng nhà văn để lại trên cõi người trước khi bước vào miền không trở lại. Tùy bút “Tự tình cùng cái đẹp” gồm 11 tác phẩm được viết qua nhiều thời điểm khác nhau, mỗi tùy bút là một cảm hứng, một cảm quan nhân sinh của tác giả trước cuộc sống, tình yêu và cái đẹp của nhà văn. “Phận hoa bên lề” là bài tùy bút độc đáo của nhà văn về loài hoa cỏ lau, in trong tập “Tự tình cùng cái đẹp”. Với bài tùy bút nói riêng và tập tùy bút nói chung đã khiến người đọc ngỡ ngàng, xuýt xoa khi thấy nhà văn nhìn ngắm, soi chiếu, giãi bày cảm xúc qua mỗi cái đẹp đang ngự trị trên mặt đất này. “Tự tình cùng cái đẹp” không chỉ thể hiện rõ nét đặc trưng của một thể loại văn học độc đáo – tùy bút, một thể loại văn xuôi trữ tình ghi chép một cách tự do những suy nghĩ, cảm xúc mang màu sắc cá nhân của người viết về con người và sự việc, thể hiện rất rõ cái “tôi” độc đáo, cũng như tâm hồn, tình cảm của tác giả với ngôn ngữ giàu chất thơ mà còn thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của Chu Văn Sơn.
+ Đoạn trích trên nằm ở phần đầu của bài tùy bút “Phận hoa bên lề” thể hiện những cảm nhận mới mẻ, độc đáo cùng những xúc cảm nồng nàn của nhà văn về một “phận hoa bên lề” – hoa lau. Bằng đôi mắt độc đáo, bằng góc nhìn mới lạ của mình, Chu Văn Sơn đã phát hiện ra “cái đẹp kín đáo và che lấp” của loài hoa lau, để rồi đem đến cho người đọc những cảm xúc ngỡ ngàng, từ đó rút ra cho chính mình những bài học “trông nhìn” và “thưởng thức” giữa những phồn tạp, xô bồ của cuộc đời.
* Phân tích, chứng minh
Luận điểm 1. “Phận hoa bên lề” đã phát hiện cái đẹp kín đáo và che lấp ở chỗ không ai ngờ tới của một loài hoa.
– Nhan đề bài tùy bút đã ẩn chứa về một cái đẹp bị che lấp giữa thường nhật cuộc đời, một “phận hoa” ở “bên lề”, một cái đẹp bị con người vô tình hoặc hữu ý lãng quên khi vội bước bên đường. Và những lời đề từ “Đó là loài hoa nở vào cuối năm/ Đó là loài hoa mọc nơi cuối đất/ Đó là loài hoa đợi ở cuối đời” đã hé mở người đọc về một cái đẹp kín đáo mà “không ai ngờ tới”. Cái đẹp viên mãn, nở rộ vào “cuối năm”, cái đẹp bung tỏa, mạnh mẽ ở những nơi “cuối đất”, và cái đẹp bền bĩ ở “cuối đời”. Đó là vẻ đẹp của loài hoa lau. Vẻ đẹp của một loài hoa mà nghe tên thì chẳng còn xa lạ. Một loài hoa mà không nhiều người quan tâm đến sự tồn tại, sự có mặt của nó trên đời này, Một loài hoa mà nhiều người không bận tâm, trông ngóng. Loài hoa nở vào những tháng cuối năm, nở trên những thửa đất cuối còn thừa ra, sót lại. Loài hoa mà con người ta sẽ hướng về khi bước đến đoạn đời cuối.
– Cái đẹp kín đáo, bị che lấp, không ngờ tới của hoa lau trong đôi mắt phát hiện của nhà văn tài hoa:
+ Cái đẹp trước tiên của hoa lau là cái đẹp của sự mạnh mẽ, kiên cường khoe sắc trong gió bấc mưa phùn của những ngày đông tận, khoe sắc trong sự chối bỏ của loài người. Loài hoa ấy kiên nhẫn, nhún nhường khi tự nhận cho mình vị trí nơi “cuối hàng” sau khi tất cả các loài hoa trong năm đã khoe sắc. Hoa lau tự chọn thời điểm khoe sắc của mình, không phải mùa xuân tràn trề sức sống, không phải mùa hạ rực rỡ nắng vàng, cũng chẳng phải mùa thu với những cơn gió heo may mà đó là mùa đông, hơn nữa đó là lại là những ngày “đông tận” với “gió bấc mưa phùn”. Không biết hoa lau vô tình hay hữu ý mà không quan tâm đến xúc cảm của loài người với chính nó? Người đời không ai chờ đợi nó vào dịp tất niên, cũng chẳng một ai hân hoan chào đón nó cho tân niên. Và ở chính thời điểm không ngờ tới ấy, nó mới dâng hoa cho chính mình và cho cuộc đời.
+ Cái đẹp của hoa lau còn là cái đẹp của sự bình dị, giản đơn trong cuộc sống. Hoa lau không thuộc về không gian của hội hè, của những chốn cao sang. Nó cũng không thuộc về những vựa hoa, quầy hoa, sạp hoa trên phố xã tấp nập đông vui. Nó càng không phải là loài hoa được người ta lựa chọn để trang hoàng khánh tiết, để bày tỏ tình yêu. Bàn tay duy nhất chạm vào nó không phải là bàn tay chăm sóc, nâng niu mà bàn tay “triệt bỏ” nó. Hoa lau giản đơn, đời thường như chính tên gọi của nó. Nhưng không vì thế mà nó đánh mất đi cái đẹp của chính mình. Nó vẫn khoe sắc, vẫn nở rộ với cái đẹp bình dị.
+ Cái đẹp của hoa lau còn là cái đẹp của sự kiên nhẫn, bền bỉ. Biết thân, biết phận mình không có chỗ trong vườn nhà, hoa lau chỉ dám mọc trên đất bỏ hoang. Có khi nó đứng ngay bên đường, ngay trong tầm mắt người nhưng cũng không ai biết đến nó. Bởi nó chỉ là loài hoa dại sống ở vườn hoang. Ấy vậy mà hoa lau vẫn cứ kiên cường, kiêu hãnh với sức sống và vẻ đẹp lầm lụi của mình. Trong khi mọi loài hoa khác đều sợ gió làm phai sắc, nhạt hương, chỉ riêng hoa lau dám không sợ gió, dám đem bản lĩnh của mình đùa giỡn với gió, đùa giỡn với lãng quên. Chẳng được như trăm loài hoa khoe sắc khác đua nở theo vòng tuần hoàn của vũ trụ, hoa lau bốn mùa chỉ giữ nguyên một dáng vẻ với sắc trắng hoang vu. Nó biết rõ thân phận mình chỉ là loài cỏ bị bỏ rơi, loài hoa bạc phận bị người đời thờ ơ. Nhưng nó vẫn bền bỉ có mặt khắp mọi nơi, giống như công dân toàn cầu vậy. Lau vẫn mang nỗi buồn trắng xoá phủ khắp núi đồi hoang.
– Vẻ đẹp kín đáo và che lấp của loài hoa lau được Chu Văn Sơn khắc họa bằng nghệ thuật độc đáo.
+ Nhà văn đã lựa chọn thể loại tùy bút, một thể loại độc đáo để thể hiện những xúc cảm trong tâm hồn trước những cái đẹp kín đáo bị che lấp của cuộc đời.
+ Đó là nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đầy tài hoa của nhà văn. Để khắc họa vẻ đẹp mạnh mẽ, kiên cường mà bình dị, giản đơn mà kiên nhẫn, bền bỉ của hoa lau, Chu Văn Sơn đã sử dụng lớp từ ngữ rất đỗi “phong nhiêu”, độc đáo, sáng tạo. Tùy bút là một “cơn mưa hoa chữ”, các con chữ như hoan ca cùng cái đẹp, như đang thăng đồng cùng Cái đẹp.
+ Hơn nữa, thủ pháp đối lập cũng được nhà văn sử dụng thành công. Vẻ đẹp của hoa lau được nhà văn khắc họa trong những đối cực gay gắt. Giữa cái tận cùng của thời gian “cuối năm”, giữa cái tận cùng của không gian “cuối đất” và giữa cái tận cùng của nhân sinh “cuối đời” hoa lau lại khoe sắc.
+ Một giọng văn trầm buồn cứ lan toả trong từng trang văn của tác giả gợi cho người đọc nhiều ý vị sâu xa.
Luận điểm 2. Bài học “trông nhìn và thưởng thức” mà tùy bút mang đến cho bạn đọc
– Chu Văn Sơn đã đem tới cho người đọc những bài học “trông nhìn” , đánh giá cuộc sống:
++ Cái đẹp của cuộc đời được biểu hiện phong phú, đa dạng. Có cái đẹp kì vĩ, hoành tráng, lớn lao. Có cái đẹp bình dị, nhỏ bé. Có cái đẹp bị chôn vùi, quên lãng. Vì thế con người, cần có đôi mắt tinh tế, sâu sắc để phát hiện ra những cái đẹp ẩn sâu, kín đáo và đôi khi bị che lấp giữa cuộc đời.
++ Đề cao giá trị, cái đẹp của mỗi sự vật, mỗi con người trong cuộc đời. Loài hoa lau dẫu bị người đời lãng quên, che lấp nhưng vẫn bung nở vào thời điểm và không gian của nó. Phải chăng cái đẹp kín đáo, bị che lấp của hoa lau đã ẩn chứa một bài học nhân sinh cao đẹp mà nhà văn muốn gửi đến bạn đọc? Một loài hoa lau mỏng manh giữa dòng đời vội vã phải chăng là hình ảnh ẩn dụ cho vẻ đẹp của mỗi kiếp người giữa cõi nhân sinh? Mỗi con người đều mang trong mình một vẻ đẹp, một giá trị riêng, đều có một thời điểm, một không gian của riêng mình. Điều quan trọng là chúng ta cần biết kiên trì, bền bĩ, và kiên cường để tỏa sáng ở thời điểm của mình, ở không gian của mình, ở nơi mà chúng ta thuộc về. Hãy nhìn vào cái cách mà hoa lau bền bỉ, kiên cường khoe mình trước gió, làm đẹp cho đời theo cách của riêng nó để chọn cho mình một hướng đi, một con đường, một thời điểm và một không gian của chính mình.
+ Chu Văn Sơn cũng đã đem tới cho người đọc bài học “thưởng thức” vẻ đẹp cuộc sống, vẻ đẹp con người, “thưởng thức” vẻ đẹp của một tác phẩm văn chương: cần gắn bó với cuộc sống, con người; có cái nhìn sâu sắc, tinh tế mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp kín đáo của thiên nhiên, vạn vật, vẻ đẹp ẩn sâu tâm hồn con người; cũng như cần nuôi dưỡng tâm hồn văn chương để cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương cũng như cái tài, cái tâm của người nghệ sĩ.
* Đánh giá
– Ý kiến là hoàn toàn đúng đắn khi khẳng định vai trò và sứ mệnh của nhà văn: phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức.
– Tấm lòng và tài năng của người nghệ sĩ chân chính Chu Văn Sơn: đã khám phá, phát hiện ra những vẻ đẹp kín đáo của hoa lau trong những điều kiện, hoàn cảnh sống tưởng chừng như không phải nơi dành cho sự tồn tại của cái đẹp. Tùy bút Chu Văn Sơn, là đỉnh cao của sự kết tinh sâu sắc giữa cảm thức về cái đẹp trước cuộc đời với những tri thức uyên bác về Mỹ học, Triết học và Văn hóa đã được nghiệm sinh, cùng với sự tài hoa trong nghệ thuật viết tùy bút.
– Ý kiến cũng đề ra bài học cho người sáng tạo và người tiếp nhận:
+ Bài học đối với người cầm bút: quan điểm của Thạch Lam là một thái độ tự trọng nghề nghiệp sâu sắc, khẳng định sứ mệnh của người nghệ sĩ.
+ Bài học đối với người đọc: người đọc có cách nhìn nhận, đánh giá về cuộc sống, con người, biết thưởng thức tác phẩm một cách đúng đắn và có ý nghĩa nhất.
KẾT BÀI
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng chia sẻ: “Theo tôi, mục đích đầu tiên và cuối cùng của văn học nghệ thuật là đem lại cái hay, cái đẹp cho cuộc sống”. Thật vậy, sứ mệnh của người nghệ sĩ, xét đến cùng là tìm kiếm cái đẹp, phát hiện cái đẹp kín đáo, bị che lấp ở những chỗ không ai ngờ tới và để nó khoe sắc, tỏa hương trên những trang văn của mình. “Phận hoa bên lề” nói riêng và tập tùy bút “Tự tình cùng cái đẹp” của Chu Văn Sơn đã đem đến cho chính tôi những cảm thức về một cái đẹp kín đáo, che lấp của loài hoa lau, một loài hoa, quả thật, tôi đã vô tình lãng quên trong cuộc sống!