📘 Tải 100+ tài liệu nghị luận văn học, 100+ đề thi học sinh giỏi ... chỉ 1 Click

Phân tích đánh giá nghệ thuật tự sự trong đoạn trích Trẻ con không được ăn thịt chó

ĐỀ 2: Viết một bài văn nghị luận phân tích, đánh giá nghệ thuật tự sự trong đoạn trích Trẻ con không được ăn thịt chó (ở phần Đọc hiểu) của Nam Cao.

[…]

Người mẹ rất còm cõi và bốn đứa con gầy ốm, quây quần với nhau trong xó bếp. Trong gia đình này, năm mẹ con thường giống như một bọn dân hèn yếu cùng chung phận con sâu, cái kiến dưới cái ách một ông bạo chúa.

Thấy lũ con đứa nào cũng nhăn nhăn, nhó nhó, người mẹ thương đứt ruột. Thị biết rằng chúng đói. Khi người ta đã đói mà lại ngửi thấy mùi thịt chó, thì bụng càng đói thêm. Thế mà bữa rượu của người bố với ba ông khách cứ kéo dài mãi. Nghĩ mà bực quá! Cái thể không chết được, chứ giá chết được thì thị chỉ thắt cổ đi cho rồi….Thị dỗ con:

Cố mà nhịn lúc nữa, các con ạ. Đợi trên nhà ăn xong, còn thừa thì ta ăn.

Rồi muốn cho chúng quên đi, thị sổ tóc ra cho chúng xúm vào bắt chấy. Úi chà! Nhiều chấy quá! Chỉ việc rẽ một đám tóc ra là đủ thấy bốn, năm con bò lổm ngổm. Cái Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ thi nhau bắt. Chúng cho cu Con mấy con chấy kềnh làm trâu. Mới đầu cái trò chơi ấy cũng hay hay. Nhưng chỉ một lúc là chúng chán. Thằng cu Con ra hiệu đình công trước. Nó lăn vào lòng mẹ, oằn oại vừa hụ hị kêu:

Đói!…Bu ơi! Đói…

Tức khắc những đứa kia cũng nhớ ra rằng chúng đói. Chúng không bắt chấy cho mẹ nữa. Chúng thở dài. Chúng nuốt bọt nhem nhép. Chúng thừ mặt ra. Chúng nằm ẹp xuống đất và lật áo lên để khoe cái bụng. Bụng đứa nào đứa nấy cũng gần dính lưng.

Mắt thị rơm rớm nước. Cũng may, tiếng người bố trên nhà gọi:

Cái Gái đâu! Dẹp mâm đi, này!

Bốn đứa trẻ cùng nhỏm dậy: mặt chúng đột nhiên tươi tỉnh lại. Gái “vâng” một tiếng thật to và chạy lên. Cu Nhớn, cu Nhỡ ngồi chồm chỗm đợi…Một lát sau, Gái bê mâm xuống. Nó cũng nâng lên ngang mặt như cha lúc nãy. Các em nó đứng cả lên, chực đu lấy cái mâm. Nó càng nâng cao hơn, mồm thét:

Khoan! Khoan! Kẻo vỡ…

Cu Nhớn thét:

Thì bỏ xuống!

Cái Gái vênh mặt lên, trêu nó:

Không bỏ. Không cho chúng mày ăn.

Có sợ thành tật không?

Không cho ăn thật đấy.

Cu Nhỡ sốt ruột, khoặm mặt lại, vằng nhau với chị:

Làm trò mãi! Có bỏ xuống đây không nào?

Gái hạ nhanh mâm xuống đất bảo:

Này, ăn đi.

Nó ngẩng mặt nhìn các em, cười the thé. Người mẹ xịu ngay xuống. Trong mâm, chỉ còn bát không. Thằng cu Con khóc òa lên. Nó lăn ra, chân đạp như một người giãy chết, tay cào xé mẹ. Người mẹ đỏ mũi lên và mếu xệch đi, rưng rưng khóc. Cái Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ cũng khóc theo.

 (Trích Trẻ con không được ăn thịt chó, Nam Cao, Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 32, NXB Khoa học xã hội, tr.120, 121)

Bài làm:

Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận (nghệ thuật tự sự)

VD: Nam Cao là cây bút cuối mùa nhưng cũng là cây bút tiêu biểu nhất của văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Ông viết nhiều về đề tài người trí thức và người nông dân trước cách mạng tháng 8 với sở trường khai thác diễn biến tâm lí nhân vật đặc sắc. Đặc biệt, Nam Cao đem lại những chiêm nghiệm, triết lí sâu sắc về cuộc đời, con người. “Trẻ con không được ăn thịt chó” là một tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao thuộc về đề tài người nông dân. Không chỉ có giá trị về mặt tư tưởng, tác phẩm còn đặc sắc về nghệ thuật tự sự. Đoạn trích từ “Người mẹ rất còm cõi” đến “cu Nhỡ cũng khóc theo” đã biểu hiện rõ tài năng độc đáo của tác giả trong cách kể, cách trần thuật câu chuyện một cách ấn tượng.

Thân bài:

1) Phạm vi phản ánh, cấu trúc của tác phẩm:

Đầu tiên, phạm vi phản ánh của đoạn trích mang tính điển hình của một tác phẩm truyện ngắn: tập trung vào một sự kiện nhỏ – là một khoảnh khắc của đời sống. Đó là sự kiện người bố rây ra đánh chén bữa cơm rượu với thịt chó trong khi những đứa con và vợ ở dưới bếp thì đói nheo đói nhóc. Chỉ với một sự kiện, đoạn trích đã làm nổi bật nội dung phản ánh của truyện. Cấu trúc truyện ngắn mang dáng dấp của cách kể truyền thống: kể theo trình tự tuyến tính, sự kiện diễn ra trước kể trước, diễn ra sau kể sau, có trật tự logic. Đó là chuỗi sự kiện người mẹ và bầy con còm cõi quây quần với nhau dưới bếp, người mẹ xổ tóc cho chúng bắt quên đói, nhưng được một lúc, cái đói lại cuộn lên, những đứa con òa khóc. Chúng chờ được đến lúc ông bố vô tâm vọng lên tiếng nói dọn mâm từ nhà trên, nhưng cuối cùng cũng chỉ còn xương với xẩu. Lần này thì cả mẹ và con cùng khóc. Kết thúc đoạn trích là những giọt nước mắt tủi hờn của những con người khốn khổ, một gia đình khốn nạn có một người chồng, người cha vô tâm.

2) Xây dựng tình huống truyện:

Đoạn trích xây dựng cốt truyện tự nhiên, xoay quanh nhân vật Thị – người mẹ và 4 đứa con (cu Gái, cu Nhớn, cu Con, cu Nhỡ) là những nhân vật trung tâm làm hiện lên thế giới sinh động của tác phẩm. Đặc biệt, đoạn trích tập trung khắc họa một tình huống khá ấn tượng. Tình huống người mẹ và những đứa con nghèo đói quây quần bên nhau, trong khi lão chồng còn bận xơi rượu thịt ở nhà trên. Đó là một tình huống vô cùng chân thực, giản dị nhưng cũng rất éo le, đáng thương nói lên nghịch cảnh bất công của xã hội: đàn ông thì lắm thói tật, đàn bà thường chịu thua thiệt, nhún nhường. Những người đàn ông vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình để cho vợ con phải day trở trong cảnh túng thiếu. Những đứa con bất hạnh, ngây thơ nhưng đáng thương, tội nghiệp không thể làm gì chống trả với cái nghèo, cái đói ngoài những tiếng than khóc với mẹ. Đó là đỉnh điểm của sự bất lực, nghèo khổ. Thông qua tình huống truyện, Nam Cao đã phản ánh chân thực tình trạng đói nghèo thảm thương của những người nông dân Việt Nam trước CMT8, đặc biệt hình ảnh trẻ con và người phụ nữ lại càng khiến ta đau đớn, não ruột. Đồng thời, tác giả cũng bộc lộ thái độ phê phán sâu sắc đối với những hạng người vô tâm, thiếu nhân tính trong xã hội, ở đây là những ông chồng vô trách nhiệm, tham ăn đến mức đáng khinh bỉ.

3) Người kể chuyện:

Truyện được kể ở ngôi thứ ba số ít, thể hiện một góc nhìn khách quan, toàn diện, người kể biết hết cả những biểu hiện bên ngoài lẫn những trạng thái cảm xúc, suy nghĩ của người mẹ thương con. Đoạn trích chủ yếu tập trung xây dựng điểm nhìn trần thuật ở bên ngoài nhưng cũng di chuyển điểm nhìn vào bên trong để khám phá nội tâm nhân vật. Tập trung quan sát bên ngoài, đoạn trích miêu tả rất cụ thể, chân thực hàng loạt các hành động, lời nói của các nhân vật, làm nổi bật tính chất đời thường của tác phẩm. Quan sát bên ngoài, tác giả phát hiện thấy ngoại hình thảm thương của bốn mẹ con: “Người mẹ rất còm cõi và bốn đứa con gầy ốm, quây quần với nhau trong xó bếp”. Đó là ngoại hình của những kẻ nghèo khó, báo hiệu một số phận bất hạnh, không gian sinh hoạt của họ là không gian “xó bếp” – một nơi tầm thường, bừa bộn nhất trong nhà. Thậm chí, Nam Cao còn hữu hình hóa cái khổ của bốn mẹ con bằng một biện pháp so sánh: “Trong gia đình này, năm mẹ con thường giống như một bọn dân hèn yếu cùng chung phận con sâu, cái kiến dưới cái ách một ông bạo chúa”. Như vậy, địa vị trong gia đình của vợ và các con đã bị đẩy đến đáy cùng xã hội, họ không còn được xem là con người, mà là những con vật nhỏ bé, yếu đuối và dễ bị bắt nạt. Khốn khổ thay, kẻ bắt nạt không ai khác lại là người chồng, người cha của họ.

Bên cạnh đó, thông qua việc quan sát điểm nhìn bên ngoài, Nam Cao khám phá thấy nhân vật Thị là một người mẹ rất thương con. Tình thương của chị được thể hiện qua những lời nói ân cần an ủi: “Cố mà nhịn lúc nữa, các con ạ. Đợi trên nhà ăn xong, còn thừa thì ta ăn”, rồi chị tâm lí bày trò chơi cho chúng thi nhau quên đói. Trò bắt chấy tưởng ngây ngô mà hữu dụng đến lạ. Nhưng hữu dụng bao nhiêu, chúng cũng chỉ lãng quên được một lúc. Sau cùng, khi cái Gái bê mâm cơm từ nhà trên xuống chẳng còn gì, Thị phải bật khóc “rưng rưng” cùng con. Giọt nước mắt của chị là giọt nước mắt ê chề, tủi phận, bất lực của một người mẹ. Dường như chị đã hoàn toàn mất niềm tin vào một người chồng vô trách nhiệm. Chị khóc cho thân phận xấu số của bốn mẹ con chị. Cụm từ “thương đứt ruột” đã diễn tả sâu sắc nỗi lòng người mẹ khốn khổ này.

Đáng thương hơn nữa là hình ảnh những đứa trẻ, chúng đi từ hi vọng đến thất vọng tràn trề. Chúng ngây ngô kêu đói, rồi ngây ngô tham gia trò chơi của mẹ, ngây ngô chờ đợi, hớn hở vui mừng khi chị Gái bê mâm cơm xuống và cuối cùng cũng ngây ngô khóc òa lên khi chẳng còn gì để ăn. Bõ công cho cả một quá trình chờ đợi, lật áo lên “bụng đứa nào đứa nấy cũng gần dính lưng” nhưng cuối cùng miếng ăn vẫn là một thứ xa vời đối với chúng. Bởi một ông bố vô tâm, thiếu tình thương, chúng trở thành những đứa trẻ bị bỏ đói đến nheo nhóc.

Bên cạnh đó, Nam Cao còn có biệt tài di chuyển linh động điểm nhìn vào bên trong nhân vật, ở đây là nhân vật Thị. Hình thức trần thuật nửa trực tiếp đã góp phần để cho Thị bộc bạch nỗi lòng: “Khi người ta đã đói mà lại ngửi thấy mùi thịt chó, thì bụng càng đói thêm. Thế mà bữa rượu của người bố với ba ông khách cứ kéo dài mãi. Nghĩ mà bực quá! Cái thể không chết được, chứ giá chết được thì thị chỉ thắt cổ đi cho rồi”. Đó là những dòng suy nghĩ đầy tức giận, uất nghẹn trong lòng chị. Chị thấu hiểu cơn đói hành hạ những đứa con, càng thương con bao nhiêu, chị càng giận chồng bấy nhiêu. Nhưng thân phận con sâu, cái kiến trong nhà khiến chị không thể làm gì khác được. Chị chỉ mong được chết đi. Chỉ có cái chết mới lấy đi được cái bất lực, nỗi đau của chị trong cái thân phận khốn khổ này: vừa nghèo đói lại vừa có một ông chồng vô tình vô nghĩa. Những dòng nội tâm của Thị tuy không nhiều nhưng cũng đủ nói lên sự bất lực cùng cực của một người đàn bà bất hạnh. Đoạn trích đã tạo dựng một khoảng cách trần thuật gần gũi, thân thiết của người kể chuyện với nhân vật Thị và những đứa trẻ, thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với bi kịch của mẹ con chị.

Viết về người nông dân, Nam Cao có một giọng điệu trần thuật linh hoạt. Trước hết, ông bày tỏ thái độ cảm thông, chua xót đối với tình cảnh trớ trêu, nghèo khổ của mẹ con Thị. Bằng những từ đặc tả chi tiết “mặt những đứa trẻ nhăn nhăn, nhó nhó”, “thở dài”, “nuốt bọt nhem nhép”, ta thấy rõ được sự xót xa của nhà văn. Bên cạnh đó, tác giả còn ngầm phê phán nghiêm khắc sự vô tâm, thiếu trách nhiệm của người cha, và trân trọng, ngợi ca tình mẫu tử thiêng liêng của người mẹ.

4) Ngôn ngữ trần thuật:

Bằng một hệ thống ngôn ngữ giản dị, mộc mạc mà giàu chiêm nghiệm, triết lí, Nam Cao đã trần thuật câu chuyện một cách vừa gần gũi, dễ đọc lại vừa ấn tượng, khơi gợi được sự đồng cảm nơi người đọc. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc giúp lời văn thêm sinh động. Đó là cách sử dụng khéo léo biện pháp so sánh “như một bọn dân hèn yếu cùng chung phận con sâu, cái kiến”, “chân đạp như một người giãy chết”. Đặc biệt, ông có biệt tài sử dụng nhiều từ láy, tính từ đặc tả ngoại hình, hành động của nhân vật: nhăn nhăn, nhó nhó, hụ hị kêu, nuốt bọt nhem nhép, ngồi chồm chỗm đợi… Bên cạnh những câu kể, tả, tác giả còn đan xen linh hoạt những câu bình luận, đánh giá, thể hiện thái độ, cảm xúc, lời nhân vật và lời người kể chuyện.

5) Đánh giá giá trị nội dung:

Truyện hướng về chủ đề miếng ăn cái đói của người nông dân nghèo trước CMT8. Đối tượng phản ánh là năm mẹ con Thị. Qua đó, đoạn trích đã phản ánh xã hội tối tăm, nghèo khó những năm đầu TK XX và cũng phản ánh được đời sống con người: Đó là những người chồng vô lương tâm, thiếu trách nhiệm, và những người mẹ khốn khổ thương con mà bất lực, những đứa trẻ bất hạnh bị cái đói hành hạ. Như vậy, đoạn trích không chỉ phản ánh cái nghèo mà còn phản ánh sự rạn nứt của các mối quan hệ trong gia đình. Đó là bi kịch còn lớn hơn cả cái nghèo khó. Tất cả điều này gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc nhờ một nghệ thuật tự sự có chiều sâu, giàu sức thuyết phục.

III. Kết bài: Tổng kết ý nghĩa của vấn đề, khẳng định tác phẩm và tài năng của tác giả

Yêu thích

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *