Cách viết đoạn văn phân tích một chi tiết nghệ thuật đặc sắc:
Kỹ năng viết:
– Bước 1: Kể, tóm tắt lại sự việc dẫn đến lời nói, cử chỉ, hành động của nhân vật.
– Bước 2: Lí giải vì sao nhân vật có hành động, lời nói, cử chỉ như vậy? Khi lí giải, HS cần căn cứ vào hoàn cảnh, vào tình huống trước đó, vào mối quan hệ giữa các nhân vật; căn cứ vào tính cách, bản chất của nhân vật.
VD: Trong hoàn cảnh sống trong sự đầy đủ, ấm áp chị em Lan và Sơn lại càng thấy hiểu cái giá lạnh mà Hiên đang phải hứng chịu trong cơn gió lạnh đầu mùa. Vốn là người giàu lòng trắc ẩn và có trái tim ấm áp giàu tình yêu thương con người nên nhân vật Sơn và Lan không cho phép mình làm ngơ trước nỗi đau của Hiên, chính vì thế, hai chị em không hề toan tính đã nhanh chóng về lấy áo của em Duyên, vật kỉ niệm rất quan trọng, mang cho Hiên mượn. Hành động này thật cảm động và đáng trân trọng biết bao nhiêu.
Chú ý: Những tình huống nhân vật được đặt vào bờ ranh giới vô cùng mong manh cho những lựa chọn; lúc này người viết phải chú ý nhân vật được trước các lựa chọn như: Thiện-ác, chính-tà, tiến-lùi; trả thù-tha thứ, được-mất, vật chất- tinh thần, sống-chết; danh dự-tiền bạc, thật-giả… Mỗi một sự lựa chọn đó sẽ là cuộc đấu tranh, là sự giằng xé, cân nhắc. Qua sự lựa chọn, người viết có thể thấy được: phẩm chất, tính cách của nhân vật; thấy được bản lĩnh hoặc sự yếu đuối của nhân vật. Mỗi sự lựa chọn trong tình huống đặc biệt, ở bờ ranh mong manh ấy sẽ là tấm gương phản chiếu chân thực và sâu sắc nhất bản chất của nhân vật.
VD: Ông Hai bị dồn vào đường cùng khi đứng trước bờ ranh giới mong manh để lựa chọn giữa: Về làng – không về; giữa yêu làng-thù làng, giữa chốn dung thân và danh dự; giữa cái được-mất => qua đó, người đọc mới đánh giá được hết sự lựa chọn của nhân vật ấy sáng suốt hay mù quáng, từ đó người đọc hiểu được bản lĩnh, tính cách, phẩm chất của ông Hai.
VD: Phân tích hành động lão Hạc lựa chọn cái chết: Lúc này lão Hạc cũng đứng trước những sự lựa chọn: Sống- chết, được-mất, tình thương con-sự ích ký cá nhân…
VD: Khi Tràng dẫn thị về ra mắt mẹ, đặt bà cụ Tứ vào tình huống phải lựa chọn: Chấp nhận-không chấp nhân, giữa mạng sống của gia đình – hạnh phúc của các con…
– Bước 3: So sánh hành động lời nói đó của nhân vật với một nhân vật khác trong truyện khác; hoặc so sánh hành động đó với một sự việc, hiện tượng trong cuộc sống theo công thức sau:
+ A (hành động của nhân vật) như/là B (là sự vật, sự việc hiện tượng) + nếu một vài đặc tính của B để thấy được ý nghĩa về hành động của A.
VD: Hành động của Lan và Sơn lấy áo cho Hiên mượn xuất phát từ tình thương và lòng trắc ẩn của một tâm hồn ngây thơ trong sáng. Hành động ấy như tia nắng mặt trời ấm áp xua tan đi cái giá lạnh của mùa đông, sưởi ấm cho những thân phận bất hạnh và ngời sáng tình người cao đẹp của một chủ nghĩa nhân văn rất thiết tha và cảm động.
– Bước 4: Đánh giá về phẩm chất, bản chất của nhân vật: Qua tình huống, hành động của nhân vật, HS cần thấy nhân vật là người như thế nào? Để trả lời được câu này, HS cần phải hiểu được những biểu hiện của con người với những tính cách đặc trưng (người có tình yêu thường thường…, người trung thực thường….)
– Bước 5: Đánh giá lại hành động đó, khái quát ý nghĩa của hành động bằng hình ảnh có tính chất triết lí. Để làm được như vậy HS nên sử dụng câu khẳng định có từ là: Phẩm chất là…là …
Đoạn văn mẫu:
B1: Truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa” là tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của Thạch Lam. Với cốt truyện rất đơn giản, giọng văn nhẹ nhàng đập khẽ khàng như một cánh bướm non nhưng gieo vào lòng người đọc những bận bịu, đọc xong cứ phải nghĩ. Truyện kể về Lan và Sơn có những nghĩa cử, hành động rất cao đẹp trong ngày đông lạnh giá đầu mùa.
B2: Sống trong sự đầy đủ, ấm áp chị em Lan và Sơn lại càng thấu hiểu cái giá lạnh mà Hiên đang phải hứng chịu trong cơn gió lạnh đầu mùa. Vốn là người giàu lòng trắc ẩn và có trái tim ấm áp giàu tình yêu thương con người nên nhân vật Sơn và Lan không cho phép mình làm ngơ trước nỗi đau của Hiên, chính vì thế, hai chị em không hề toan tính đã nhanh chóng về lấy áo của em Duyên, vật kỉ niệm rất quan trọng, mang cho Hiên mượn. Hành động này thật cảm động và đáng trân trọng biết bao nhiêu.
B3: Hành động của Lan và Sơn lấy áo cho Hiên mượn xuất phát từ tình thương và lòng trắc ẩn của một tâm hồn ngây thơ trong sáng. Hành động ấy như tia nắng mặt trời ấm áp xua tan đi cái giá lạnh của mùa đông, sưởi ấm cho những thân phận bất hạnh và ngời sáng tình người cao đẹp của một chủ nghĩa nhân văn rất thiết tha và cảm động.
B4: Qua đây, ta thấy Lan và Sơn là người có giàu tình yêu thương con người cùng trái tim ấm áp yêu thương.
B5: Chính những điều Lan và Sơn làm đã củng cố niềm tin, gieo vào lòng người đọc những giá trị nhân văn tích cực: Tình thương là hạnh phúc/ Tình thương là sức mạnh. (Chính vì thế, người đọc càng thấm thía hơn ý kiến: Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi thiếu tình yêu thương. Vậy tại sao chúng ta hãy trao cho nhau tình yêu thương để cuộc đời có thêm sức mạnh và niềm hạnh phúc vô biên)
Đoạn 2:
Đề bài: Cảm nhận về chi tiết “cái bóng” trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ bằng một đoạn văn theo phép lập luận tổng phân hợp có độ dài 12-15 câu. Trong đoạn có sử dụng thành phần khởi ngữ và câu hỏi tu từ (gạch chân và ghi rõ chú thích)
Bài làm
(1)Chi tiết chiếc bóng là chi tiết nghệ thuật đặc sắc, đầy ý nghĩa trong “Chuyện người con gái Nam Xương”. (2)Đây là chi tiết xuất hiện ở giữa truyện, tạo bước ngoặt cho cốt truyện phát triển. (3)Chi tiết chiếc bóng trên bức vách của Vũ Nương mỗi lúc dỗ con ngủ thường bảo “đó là cha con đấy” đã giúp nàng bù đắp tình cha cho đứa con nhưng cũng chính là mồi lửa thổi bùng lên cơn ghen trong lòng Trương Sinh. (4)Về mặt nghệ thuật, đây là chi tiết thắt nút đã đẩy Vũ Nương vào bi kịch oan trái. (5)Với Vũ Nương, cái bóng in trên tường mà hàng đêm nàng vẫn chỉ cho con thể hiện nỗi nhớ chồng khắc khoải và không muốn con mình thiếu vắng hình bóng người cha mà mong muốn con được sống trong cảnh đoàn viên. (6)Với bé Đản, cái bóng trên tường nín thin thít không bao giờ bế nó chính là người cha đêm nào cũng về. (7)Với Trương Sinh, cái bóng trên tường qua lời của con: mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi đã làm Trương Sinh nảy sinh sự nghi ngờ mẹ Đản không chung thủy, nảy sinh thái độ ghen tuông để chàng mắng nhiếc đuổi nàng đi. (8)Nhưng chính chi tiết cái bóng lại là chi tiết mở nút cho toàn bộ tác phẩm. (9)Cái bóng trên tường mà bé Đản trỏ vào và nói cha Đản lại về kìa khiến Trương Sinh hiểu được nỗi oan của vợ, hóa giải toàn bộ nghi ngờ và nỗi oan ức của Vũ Nương. (10)Cái bóng đã làm rõ giá trị hiện thực sâu sắc. (11)Cái bóng này là hiện thân của bóng đêm ghen tuông, của thói nam quyền bất công, phi lí, đầy đọa cuộc sống con người. (12)Trong chế độ ấy, thân phận người phụ nữ cũng mỏng manh như những chiếc bóng! (13)Cái bóng cũng góp phần tạo nên một giá trị nhân đạo cao đẹp: ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. (14)Nói tóm lại, chi tiết cái bóng là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Dữ làm nên sức lôi cuốn, hấp dẫn cho tác phẩm tới tận muôn đời. (15)Phải chăng “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”?
Chú thích:
Khởi ngữ.
Câu hỏi tu từ.