📘 Tải 100+ tài liệu nghị luận văn học, 100+ đề thi học sinh giỏi ... chỉ 1 Click

Cảm nhận về bài thơ Quê hương của Tế Hanh

Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Quê hương của Tế Hanh

“Làng tôi ờ vốn làm nghê chài lưới…”,

“Quê hương tôi có con sông xanh biếc

– Nước gương trong soi tóc những hàng tre…”,

Những vần thơ tha thiết đối với đất mẹ quê cha là nét đẹp nhất trong hồn thơ Tế Hanh hơn 60 năm qua. Bài thơ “Quê hương” được Tế Hanh viết năm 1939, khi nhà thơ vừa tròn 18 tuổi, đang học Trung học tại Huế. Nỗi nhớ làng chài, nhớ quê hương thân yêu ở Bình Dương, Quảng Ngãi đã tỏa rộng và thấm sâu vào bài thơ. Bài thơ man mác nhớ thương vơi đầy.

Luận điểm 1: Hai câu thơ đầu là lời giới thiệu về “làng tôi” thật thân mật, tự hào, yêu thương…

“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới

Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông”

Quê hương là một làng chài, bốn bề sông nước “bao váy”, một làng nghèo thuộc vùng duyên hải miền Trung “cách biển nửa ngày sông”. Con sông mà nhà thơ nhắc tới là sông Trà Bồng chảy qua huyện Bình Sơn, phía Bắc tỉnh Quảng Ngãi. Giọng điệu tâm tình, một cách nói chân quê dân’dã vừa cụ thể vừa trừu tượng nghe “dịu ngọt”.

Luận điểm 2: Sáu câu thơ tiếp theo là hồi tưởng lại một nét đẹp của quê hương.

Đó là cảnh làng chài ra khơi đánh cá. Kỉ niệm về quê hương như được lọc qua ánh sáng tâm hồn. Một bình minh đẹp ra khơi có “gió nhẹ”, có ánh mai “hồng”. Có những chàng trai cường tráng, khỏe mạnh “bơi thuyền đi đánh cá”. Cảnh đẹp sáng trong, giọng thơ nhẹ nhàng thể hiện khung cảnh và niềm vui của làng chài trong buổi xa khơi:

“Khỉ trời trong, gió nhẹ, sớm mơi hồng

Dân trơi tráng bơi thuyền đi đánh cá”.

Nhận xét đánh giá về nghệ thuật ÆMột loạt ẩn dụ, so sánh mới mẻ nói về con thuyền, mái chèo và cánh buồm… Tuấn mã là ngựa tơ, đẹp, phi nhanh. Ví chiếc thuyền “nhẹ hăng như con tuấn mã”, tác giả đã tạo nên một hình ảnh khỏe, trẻ trung diễn tả khí thế hăng hái, phấn khởi lén đường. Chữ “hăng” dùng rất hay, rất đích đáng. Nó liên kết với các từ ngữ: “dán trơi tráng” và “tuấn mã” hợp thành tính hệ thống, một vẻ đẹp của văn chương. Có người lầm tưởng là chữ “băng” rồi bình giảng “băng băng lướt sóng “! Mái chèo như những lưỡi kiếm khổng lổ chém xuống nước, “phăng” xuống nước một cách mạnh mẽ, đưa con thuyền “vượt trường giang”. Sau hình ảnh chiếc thuyền, mái chèo là hình ảnh “cánh buồm trương, to như mảnh hồn làng”. “Trương” nghĩa là căng lên đổ đón gió ra khơi. Nhận xét đánh giá về nghệ thuật ÆSo sánh “cánh buồm” to như “mảnh hồn làng” là hay, đặc sắc. Cánh buồm to biểu tượng cho hình bóng và sức sống quê hương. Nó tượng trưng cho sức mạnh , lao dộng sáng tạo, ước mơ vê ấm no hạnh phúc của quê nhà. Nó còn tiêu biểu cho chí khí và khát vọng đi chinh phục biển của đoăh trai tráng bơi thuyồn đi đánh cá. Nhận xét đánh giá Æ Câu thơ “Rướn thán trắng bao la thâu góp gió” là một câu thư đậm đà ý vị mang cám hứng lao động và cảm hứng vũ trụ. Cánh buồm được nhân hóa. Ba chữ “rướn thân trắng” gợi tả một cuộc đời trải qua nhiổu mưa nắng, gắng sức quyết tâm lên đường. Đây là khổ thơ xuất sác tả cảnh ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, lự hào ca ngợi sức sống của làng chài thân thương:

“Chiếc thuyền nhẹ hãng như con tuấn mã

Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang

Cánh buồm giương, to như mảnh hồn làng

 Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…”

Nhận xét đánh giá ÆPhải cảm nhận cuộc sống lao động của làng quê bằng cả tâm hồn thiêt tha gắn bó thì mới có thể liên tưởng “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”. Hình ảnh cánh buồm trắng căng gió biển khơi vốn gần gũi, quen thuộc bỗng trở nên lớn lao, thiêng liêng, vừa thơ mộng vừa hùng tráng. Nhà thơ chợt nhận ra linh hồn của làng chài quê hương trong hình ảnh cánh buồm. Câu thơ vừa vẽ ra chính xác hình thể vừa gợi ra cái linh hồn của sự vật. Tuy nhiên, phép so sánh ở (đây không làm cho việc miêu tả được cụ thể hơn mà đã gợi ra một vẻ đẹp bay bổng, mang ý nghĩa lớn lao. Bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hi vọng mưu sinh của người dân làng chài còn có thể gửi gắm vào đâu đầy đủ hơn là ở hình ảnh cánh buồm căng gió giữa biển khơi? Nhận xét đánh giá ÆĐứa con xa quê có bao giờ quên được cảnh bà con làng chài đón đoàn thuyền đánh cá từ biển khơi trở về. Phân tích từ ngữ ÆCác từ ngữ: “ồn ào”, “tấp nập” diễn tả niềm vui mừng “đón ghe vê”. Niềm vui sướng tràn ngập lòng người, là của “khấp dân làng”. Cảnh “đón ghe về” thực sự là ngày hội lao động của bà con ngư dân:

“Ngày hôm sau, ồn ào trên bến dỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về”.

Phân tích từ ngữ ÆNhững tính từ ồn ào, tấp nập toát lên không khí đông vui. Người đọc như thực sự được nhập vào cái không khí ấy, được nghe cả lời cảm tạ chân thành đất trời đã sóng yên biển lặng để người đi chài trở về an toàn với cá đầy ghe, được nhìn thấy những con cá tươi ngon thân bạc trắng thật là  thích mắt.

Cá “tươi ngon thán bạc trắng” đầy khoang thuyền. Được mùa cá, vui sướng trong niềm vui ấm no, hạnh phúc, bà con làng chài khẽ thốt lên lời cảm tạ đất trời đã cho biển lặng sóng êm, cho “cá đầy ghe”, sự cầu mong và niềm tin thánh thiện “nhờ ơn trời” ấy đã biểu lộ những tấm lòng mộc mạc, hồn hậu của những con người suốt đời gắn bó với biển, vui sướng, hoạn nạn cùng với biển. Tế Hanh đã thấu tình quê hương khi ông viết:

“Nhở ơn trời, biển lặng cá dầy ghe

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”.

Ta tưởng như ca dao, dân ca đã thấm sâu vào hồn thơ Tế Hanh:

“ơn trời mưa nắng phải thì,

Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu”…

“Nhờ trời hạ kê’sang đông,

Làm nghề cày cấy, vun trồng tốt tươi…”.

Luận điểm 3: Những câu thơ tiếp theo là ảnh bình yên khi đoàn thuyền trở về.

Những chàng trai làng chài có “làn da ngăm rám nắng” khỏe mạnh, can trường được tôi luyện trong gió sóng đại dương, trong mưa nắng dãi dầu. Họ mang theo hương vị biển. Phân tích từ ngữ ÆHai chữ “nồng thở” rất thần tình làm nổi bật nhịp sống, lao động hăng say, dũng cảm của những dân chài mang lình yêu biển. Hình tượng thơ mang vẻ đẹp lãng mạn:

“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng

Cả thán hình nồng thở vị xa xăm”.

Nét vẽ thứ hai là con thuyền là sau một chuyến ra khơi vất vả trở về, nó mỏi mệt nàm im trên bén. Con thuyền là một biếu tượng đẹp của làng chài, của những cuộc đời trải qua bao phong sương thử thách, bao dạn dày sóng gió:

“Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”.

Con thuyền được nhân hóa với nhiều yêu thương. Vẫn thấy giàu cảm xúc, mang tính triết lí vồ lao động trong thanh bình. Chữ “nghe” (nghe chất muối) thổ hiện sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế và thi vị. Nhận xét đánh giá bình luận ÆĐây chính là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ. Câu đầu tả làn da ngăm rám nắng của người dân chài theo lối tả thực, câu sau lại tả bằng một cảm nhận rất lãng mạn: “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm” – thân hình vạm vỡ của người dân chài thấm đậm hơi thở của biển cả, nồng nàn vị xa xăm của đại dương bao la.  bình luận ÆCái hay độc đáo của câu thơ là gợi tả linh hồn và tầm vóc của những người con biển cả. Hai câu thơ miêu tả con thuyền nằm im trên bến sau khi vật lộn với sóng gió trở về cũng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Nhà thơ không chỉ thây con thuyền nằm im trên bến mà còn cảm thây sự mệt mỏi của con thuyền, và còn cảm thấy con thuyền như đang lắng nghe chât muôi của đại dương đang thấm dần trong thớ ưỏ của nó. Cũng như người dân chài, con thuyền lao động ấy cũng thấm đậm vị muôi mặn của biển khơi. Con thuyên vô tri bỗng trở nên có hồn. Nhận xét đánh giá ÆKhông phải là một người con của vạn chài thiêt tha gắn bó với quê hương thì không thể viết được những câu thơ như thê! Và cũng chỉ có thể viết được những câu thơ như thế khi nhà thơ biết đặt ca hôn mình vào đôi tượng, vào người, vào cảnh để lắng nghe. Có cảm nhận được câu thơ đê’ từ ấy ta mới nắm bắt được tình thương nhớ quê hương của Tế Hanh qua bài thơ kiệt tác này.

Bài thơ “Quê hương” đã đi suốt một hành trình trên 60 năm. Nó gắn liền với tâm hồn trong sáng, với tuổi hoa niên của Tế Hanh. Thể thơ 8 tiếng, giọng thơ đằm thắm dào dạt, gợi cảm. Những câu thơ nói về dòng sông, con thuyền, cánh buồm, khoang cá, chàng trai đánh cá, bến quê… và nỗi nhớ của dứa con xa quê… rất hay, đậm đà biểu lộ một hồn thơ đẹp. Nghệ thuật phối sắc, sử dụng các biện pháp tu từ như ẩn dụ, so sánh, nhân hóa và chuyển đổi cảm giác khá thành công, tạo nên những vần thơ trữ tình chứa chan thi vị.

Trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, tác phẩm này của Tế Hanh được coi là bài thơ đầu tiên, bài thơ có “hồn vía” nhất viết về quê hương. Nó đã khơi dòng, để sau này có nhiều bài thơ tuyệt bút nối tiếp xuất hiện như “Bên kia sông Đuống” (Hoàng Cầm), “Quê hương” (Giang Nam), “Nhớ con sông quê hương” (Tế Hanh), “Quê hương” (Đỗ Trung Quân),… Người đọc tìm thấy hình bóng tuổi thơ đồng hiện với quê hương. Quê hương của một người đã trở thành của muôn người và muôn đời là thế!

Bày tỏ cảm xúc

Có lẽ chất muôi mặn mòi kia cũng đã thâm sâu vào làn da thớ thịt, vào tâm hồn của nhà thơ Tê Hanh để thành niềm ám ảnh gợi bâng khuâng kì diệu. Cái tinh tê, tài hoa của Tế Hanh là ở chỗ “nghe thấy cả những điều không hình sắc, không thanh âm như mảnh hồn làng trên cánh buồm giương… Thơ Tê Hanh đưa ta vào một thê giới thật gần gũi thường ta chỉ thấy một cách mờ mờ, cái thế giới những tình cảm ta đã âm thầm trao cho cảnh vật: sự mỏi mệt say sưa của con thuyền lúc trở về bến…” (Hoài Thanh).

Luận điểm 4: Đoạn thơ cuối nhiều bồi hổi thương nhớ, thương nhớ hình bóng quê hương.

Phân tích nghệ thuật, từ ngữ ÆĐiệp ngữ “nhớ” làm cho giọng thơ thiết tha, bổi hổi, sâu lắng. Xa quê nôn “tưởng nhớ” khôn nguôi. Nhớ “niàìt nước xanh” của sông, biển làng chài. Nhớ “cá hạc”, nhớ “chiếc buồm vôi”… Thấp thoáng trong hoài niệm là hình ảnh con thuyên “rẽ sóng ra khơi” đánh cá. Xa quê nên mới “thấy nhớ” hương vị biển, hương vị làng chài thương yêu “cái mùi nồng mặn quá”.Tình cảm thấm vào câu chữ, màu sắc, vần thơ. Tiếng thơ cũng là tiếng lòng trang trải của hồn quê vơi đầy thương nhớ. Cảm xúc đằm thắm mênh mang:

“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

 Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi

Tôi thấy nhớ củi mùi nồng mặn quá”.

Bình luận

Nếu không có mấy câu thơ này, khó có thể biết bài thơ được viết trong xa cách, trong niềm tưởng nhớ khôn nguôi – bởi những cảnh tượng bên trên được miêu tả quá sống động, hệt như chúng đang diễn ra trước mắt nhà thơ. Nỗi nhớ thiết tha trong xa cách bật ra thành lời thơ giản dị, tự nhiên như một lời nói tự đáy lòng: “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”. Cậu học trò xa quê Tế Hanh nhớ về làng quê mình với tất cả màu nước xanh, cá bạc, cánh buồm trắng, những con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi, nhưng nhớ nhất là cái mùi nồng mặn đặc trưng của quê hương. Với Tế Hanh, cái hương vị đó chính là hương vị riêng đầy quyến rũ của quê hương, là chất thơ bình dị và khỏe khoắn toát lên từ bức tranh thiên nhiên tươi sáng, thơ mộng và hùng tráng, từ đời sông lao động hàng ngày của người dân.

Yêu thích

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *