📘 Tải 100+ tài liệu nghị luận văn học, 100+ đề thi học sinh giỏi ... chỉ 1 Click

Viết bài văn phân tích bài thơ Giễu người thi đỗ của Trần Tế Xương

Đề bài: Viết bài văn phân tích bài thơ Giễu người thi đỗ của Trần Tế Xương

                                                   GIỄU NGƯỜI THI ĐỖ

                                                Một đàn thằng hỏng đứng mà trông,

                                                Nó đỗ khoa này có sướng không!

                                                Trên ghế, bà đầm ngoi đít vịt,

                                                Dưới sân, ông cử… ngỏng đầu rồng.

(Trần Tế Xương, in trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 14, Đặng Đức Siêu sưu tầm, biên soạn, Sđd, tr. 1223)

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả Trần Tế Xương, hoàn cảnh ra đời bài thơ Giễu người thi đỗ.

“Tiếng cười của Tú Xương là tiếng cười rơi nước mắt.” Câu nhận xét thường được nhắc đến mỗi khi nói về Trần Tế Xương, người đã dùng thơ để khắc lại những biến dạng của xã hội thực dân nửa phong kiến cuối thế kỉ XIX. Giữa cảnh khoa cử rối ren, danh phận đảo lộn, ông viết Giễu người thi đỗ như một lát cắt sắc lạnh vào mặt trái của thời cuộc. Chỉ bốn câu thơ mà đủ phơi bày sự thảm hại của lớp sĩ tử chạy theo hư danh và nỗi ê chề của người trí thức bị chèn ép dưới gót ngoại bang. Tiếng cười bật ra từ bài thơ ấy không chỉ để giễu mà còn để cảnh tỉnh, như một lời nhắc đầy đau xót về sự suy đồi của nền học vấn cũ.

2. Thân bài: Có thể phân tích theo bố cục bài thơ

* Ý 1:  Hai câu thơ đầu:

+ Đối tượng của tiếng cười trào phúng: các sĩ tử (trọng tâm là các sĩ tử thi đỗ).

+ Biện pháp nghệ thuật được sử dụng để tạo ra tiếng cười trào phúng: cách dùng từ ngữ suồng sã, thô mộc, câu cảm than.Trong hai câu thơ đầu những từ ngữ tác giả dùng để gọi các sĩ tử là một đàn thằng hỏng( các sĩ tử thi trượt), nó( các sĩ tử đỗ đạt) với sắc thái nghĩa: suồng sã, thô mộc có ý coi thường.

* Ý 2: Hai câu thơ cuối:

+ Đối tượng của tiếng cười trào phúng: các sĩ tử thi đỗ (ông cử), bọn thực dân (bà đầm).

+ Biện pháp nghệ thuật được sử dụng để tạo ra tiếng cười trào phúng: dùng thủ pháp đối.Hình thức hai vế đối có vẻ ngược nhau ( trên – dưới, ông – bà, đầu – đít, vịt – rồng) khắc họa những nhân vật đáng bị đem ra chế giễu. Cách sắp xếp bà đầm, trên ghế ở câu thơ trước: ông cử, dưới sân ở câu thơ sau vừa khớp với trật tự trên dưới, vị trí của hai nhân vật trong không gian thực vừa lột tả được sự thảm hại đến cái đáng thương của “đầu rồng”đỗ đạt, ở vị trí thấp hơn cái mông của một nhân vật đại diện cho bè lũ thực dân ngoại bang. Thực trạng đen tối của dân tộc ta dưới chế độ thực dân nữa phong kiến.

* Giọng điệu của tiếng cười trào phúng trong bài thơ là đã kích:

– Sử dụng những từ ngữ suồng sã, khinh thị: một đàn, nó, ngỏng, đít, thể hiện thái độ khinh ghét quyết liệt, mục đích cảnh tỉnh sự tha hóa đạo đức diễn ra tràn lan trong xã hội đương thời

– Sử dụng hình ảnh suồng sã, thô mộc: ngoi đít vịt, ngỏng đầu rồng, thể hiện sự phủ định gay gắt giá trị của nhân vật (một bên là vợ của viên quan sứu khả kính, một bên là người đỗ đạt danh vọng)

3. Kết bài:

– Khẳng định giá trị, ý nghĩa của bài thơ

Khép lại bài thơ, dư âm đọng lại không phải chỉ là tiếng cười mà là vị chát của một thời loạn lạc. Qua Giễu người thi đỗ, Trần Tế Xương đã khắc họa rõ rệt sự đảo lộn thang bậc giá trị và bi kịch của người trí thức trước sức ép của thực dân và những cám dỗ danh lợi. Câu chữ ngắn mà sắc, hình ảnh thô mà trúng, giọng điệu hài hước mà thấm thía. Bài thơ góp thêm một minh chứng cho tài năng trào phúng bậc nhất của Tú Xương và cho thấy tấm lòng đau đáu của ông trước vận nước. Dù thời gian trôi qua, tiếng cười ấy vẫn còn đủ sức lay động, nhắc người đọc hôm nay biết trân trọng và giữ gìn phẩm giá của kẻ sĩ.

Yêu thích

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bói Bài Tarot
Mở trang