📘 Tải 100+ tài liệu nghị luận văn học, 100+ đề thi học sinh giỏi ... chỉ 1 Click

Suy nghĩ về quan điểm: Cái hồn của thơ không phải là chữ mà là cái vầng sáng tỏ mờ bao quanh mỗi chữ (Chu Văn Sơn)

Đề bài: 

Cái hồn của thơ không phải là chữ mà là cái vầng sáng tỏ mờ bao quanh mỗi chữ (Chu Văn Sơn)

Bằng những trải nghiệm văn học, anh/chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

Dàn ý chi tiết

1 Giải thích
– Thơ là thể loại văn học thuộc phương thức trữ tình phản ánh tâm trạng, thái độ, tình cảm của tác giả trước hiện thực đời sống, con người bằng ngôn ngữ cô đọng gợi hình, gợi cảm và có nhịp điệu.

– “Chữ”: là yếu tố cơ bản đầu tiên cấu thành nên ngôn ngữ thơ.

– “Cái vầng sáng tỏ mờ bao quanh mỗi chữ”: là cách diễn đạt giàu hình ảnh để nói về sức gợi mở, lan truyền, tạo dư ba của thơ, vượt qua giới hạn câu chữ cụ thể.

=> Nhận định khẳng định: thơ hay là thơ giàu sức gợi, có giá trị ý ở ngoài lời, mang sức lan tỏa chiều sâu cảm xúc.

2 Bàn luận
– Thơ là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc mãnh liệt, là sự rung động chân thành của nhà thơ trước hiện thực cuộc sống. Cũng như các thể loại văn học khác, thơ dùng ngôn từ xây dựng nên hình tượng nghệ thuật và thể hiện tình cảm, thái độ của tác giả. Điều quan trọng là tư tưởng của nhà văn không phải “nằm thẳng đơ trên trang giấy mà là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm” nghĩa là tình cảm là ngọn nguồn sâu xa của cái đẹp. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đích thực phải hướng con người tới cái đẹp bằng tình cảm, cảm xúc  của nhà văn là sự lên tiếng, sự thăng hoa cảm xúc của người cầm bút. Ngô Thì Nhậm khẳng định “Hãy xúc động hồn thơ cho hồn bút có thần” là bởi thế.

– Nhà văn chỉ có thể sáng tạo nên tác phẩm khi cảm thấy trăn trở mạnh mẽ  trước cuộc sống con người, cảm thấy có tiếng nói thôi thúc mãnh liệt nơi con tim, là giây phút “bùng nổ cảm hứng” hay “cú hích của sáng tạo”. Không phải vô cớ mà Lê Quý Đôn cho rằng: “Thơ khởi phát từ trong lòng ta”. Còn Nêkraxôp thì tâm sự rằng, tất cả những gì khiến cho ông đau khổ, rạo rực, say mê, ông đều gửi vào thơ. Như vậy  tình cảm mãnh liệt – ấy chính là yếu tố đầu tiên của quá trình sáng tạo nghệ thuật. Từ đó mà ngôn ngữ thơ có sức gợi lan tỏa diệu kì với “vầng sáng tỏ mờ bao quanh” đầy hấp dẫn.

– Ngôn ngữ thơ, ngoài những đặc trưng của ngôn ngữ văn học nói chung còn cần được gọt giũa, tinh luyện để phát huy tối đa sức mạnh biểu đạt với khả năng gợi hình, gợi cảm, cô đọng và giàu tính nhạc… Thi nhân tài năng phải tạo được những “thần cú”, “nhãn tự”, ẩn chứa những lớp trầm tích ý nghĩa sâu xa. Sáng tạo ngôn từ là sự khổ luyện công phu của nhà thơ.

– Thơ hay là thơ giàu sức gợi, ám ảnh lòng người, khơi gợi trường liên tưởng phong phú, bay bổng, để lại những suy tư, trăn trở cho độc giả. Thơ thường kiệm lời nhưng lại đặt ra được những vấn đề nhân sinh sâu sắc. Nói như người xưa thì đó là “ý tại ngôn ngoại”, lời ít mà ý vô cùng, theo nguyên lí “tảng băng trôi” (3 phần nổi, 7 phần chìm).

3 Chứng minh:
Học sinh lựa chọn được những dẫn chứng tiêu biểu; phân tích những khía cạnh làm nổi bật ý nghĩa của nhận định (không phân tích cả bài). Làm rõ nội dung sau:

+ Những đặc trưng và sức biểu đạt, gợi mở sâu xa của ngôn từ nghệ thuật trong việc phản ánh đời sống, thể hiện tâm trạng trữ tình.

+ Chỉ ra sự thống nhất hài hòa giữa hình thức ngôn từ và nội dung tư tưởng, cảm xúc trong thơ

4 Đánh giá, tổng kết
– Đây là ý kiến đúng đắn, sâu sắc , tinh tế, có giá trị gợi mở phương hướng sáng tác và cảm thụ, thẩm bình thơ.

– Rút ra bài học đối với người sáng tác và người thưởng thức thơ.

+ Người nghệ sĩ khi sáng tạo cần chú ý dồn toàn bộ tài năng và tâm huyết vào việc lựa chọn hình ảnh, từ ngữ, sao cho ngôn từ nghệ thuật phát huy tối đa giá trị biểu đạt.

+ Người đọc khi thưởng thức thơ phải huy động cả tình cảm và trí tuệ để rung động thực sự với những hình tượng nghệ thuật được xây dựng bằng ngôn từ.

5 Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu; khuyến khích bài viết có sự sáng tạo.

Mở bài

Thơ không chỉ tồn tại bằng những con chữ xếp hàng ngay ngắn trên trang giấy. Có những bài thơ đọc xong vẫn ám ảnh rất lâu, không phải vì câu chữ cầu kì, mà bởi một thứ ánh sáng lặng lẽ tỏa ra từ phía sau ngôn từ. Bàn về bản chất ấy của thơ, nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn từng tinh tế nhận xét: “Cái hồn của thơ không phải là chữ mà là cái vầng sáng tỏ mờ bao quanh mỗi chữ.” Ý kiến ấy không chỉ gợi mở cách nhìn sâu sắc về giá trị của ngôn ngữ thơ, mà còn chạm tới cốt lõi của sáng tạo nghệ thuật: thơ hay là thơ có khả năng đánh thức những rung động thầm kín nhất trong tâm hồn con người, vượt qua giới hạn hữu hình của câu chữ. Từ những trải nghiệm văn học, nhận định trên hoàn toàn có cơ sở để được làm sáng tỏ.

Kết bài

Nhận định của Chu Văn Sơn đã chạm tới bản chất tinh vi nhất của thơ ca: sức sống của thơ không nằm ở chữ nghĩa đơn thuần, mà ở chiều sâu gợi cảm, dư ba lan tỏa phía sau mỗi con chữ. Chính “vầng sáng tỏ mờ” ấy làm nên sự khác biệt giữa thơ hay và thơ chỉ dừng lại ở kĩ thuật ngôn từ. Ý kiến không chỉ đúng đắn mà còn có giá trị định hướng cho cả người sáng tác lẫn người thưởng thức thơ. Người cầm bút cần viết bằng tất cả rung động chân thành, dồn tâm huyết để ngôn từ trở thành nơi hội tụ của cảm xúc và tư tưởng. Người đọc cần đến với thơ bằng cả trí tuệ và trái tim, lắng nghe những điều không được nói ra. Khi ấy, thơ mới thực sự sống, lặng lẽ mà bền bỉ, như ánh sáng mờ ảo vẫn còn ngân lên rất lâu sau khi câu chữ đã khép lại.

 

Yêu thích

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bói Bài Tarot
Mở trang