ĐỀ LUYỆN 02
Có ý kiến cho rằng: Chất thơ trong văn xuôi là cái được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn. Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Làm rõ cách hiểu ấy qua nghệ thuật tạo nên chất thơ trong một bài tùy bút, bút kí mà anh/chị yêu thích |
GỢI Ý
Xác định yêu cầu
– Dạng đề: Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học
– Vấn đề nghị luận:
+ Xác định vế câu, từ chìa khóa trong từng vế:
++ Vế 1: Chất thơ trong văn xuôi là cái được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới
++ Vế 2: bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn.
+ Trả lời các câu hỏi:
++ Ý kiến bàn về trục nào? => Trục tác phẩm văn học
++ Ý kiến đề cập đến khía cạnh nào của trục đó? => Khía cạnh: Nghệ thuật tạo chất thơ trong tác phẩm văn xuôi
– Thao tác lập luận: Giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh
– Phạm vi kiến thức: Một tác phẩm tùy bút hoặc bút kí
Lập dàn ý
Mở bài: Nêu vấn đề nghị luận, trích dẫn ý kiến, giới thiệu phạm vi kiến thức.
Thân bài
* Khái quát chung
– Giải thích
+ Thơ là gì? Thơ là loại hình nghệ thuật phản ánh cuộc sống với những cảm xúc chất chứa, cô đọng, những tâm trạng dạt dào, những tưởng tượng mạnh mẽ, trong ngôn ngữ hàm xúc, giàu hình ảnh, nhịp điệu thì bút ký cũng là thể loại đòi hỏi người viết phải giàu cảm xúc, có liên tưởng, có khả năng bình luận sắc sảo.
+ “Chất thơ” là gì? Chất thơ được hiểu là chất trữ tình được tạo nên từ sự hoà quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện để có thể khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn.
+ Chất thơ trong văn xuôi được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn”.
+ “Khai thác và biểu hiện” là hai quá trình trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Khai thác cái đẹp của cuộc sống, cái đẹp của xúc cảm trong nhân vật hay của chính nhà văn và thể hiện bằng những yếu tố nghệ thuật đặc sắc như các chi tiết các hình ảnh gợi cảm, lối văn trong sáng với nhịp điệu riêng.
=> Như vậy, nhận định trên đã đề cao vai trò của mạch cảm xúc, của các chi tiết, hình ảnh và lối viết văn trong việc hình thành nên chất thơ cho tác phẩm văn xuôi.
– Bàn luận. Vậy tại sao mạch cảm xúc, các chi tiết, hình ảnh và lối viết văn lại là những yếu tố quan trọng để tạo nên chất thơ? Xuất phát từ đặc trưng của văn học nói chung và đặc trưng của thơ ca nói riêng. Văn học là loại hình nghệ thuật bằng ngôn từ. Mỗi tác phẩm văn xuôi sẽ có một chất thơ riêng nhưng chất thơ luôn được tạo nên qua xúc cảm, qua chi tiết, hình ảnh; qua lời văn, nhịp điệu.
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm lựa chọn để phân tích, chứng minh: Hoàng Phủ Ngọc Tường và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
* Chứng minh
– Luận điểm 1. Chất thơ trong tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được tạo nên trước tiên qua các chi tiết, hình ảnh gợi cảm khi nhà văn cảm nhận và khắc tạc vẻ đẹp phong phú của sông Hương.
+ Dòng Hương giang chảy tràn trên những trang kí của nhà văn với nhiều dáng vẻ, biến hóa linh hoạt.
+ Những hình ảnh nhân hóa đầy chất thơ đã khắc tạc vẻ đẹp phong phú của sông Hương.
++ Khi còn ẩn mình nơi thượng nguồn, “sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Và khi ra khỏi rừng, cái sức mạnh bản năng của người con gái tự do, phóng khoáng trong sông Hương đã được rừng già chế ngự. Sông Hương phút chốc “mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.
++ Khi vừa ra khỏi vùng rừng núi, sông Hương như được lột xác. Dòng nước mát lành, ngọt ngào của sông Hương như một phép “cải lão hoàn đồng” trả lại cho người mẹ phù sa ấy những vẻ đẹp của một thời son trẻ “Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy thơ dại”. Cái chất thơ được tạo nên ở đây là một niềm say mê trong ánh nhìn đắm đuối của nhà văn với người gái đẹp ấy. Và bắt đầu từ đây, chất thơ của bài kí còn được phác lộ rõ nét qua “cảm hứng Kiều” khi nhà văn nhân hóa hành trình về xứ Huế của sông Hương chính là một cuộc tìm kiếm có ý thức của một người con gái đang yêu: “Ngay từ đầu, vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng…uốn mình theo những đường cong thật mềm …”, “nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán… vẽ một hình cung thật tròn … ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế
++ Khi về đến thành phố Huế, cái nhìn thiên tính nữ của nhà văn còn đem đến cho người đọc một sự ngỡ ngàng qua hình ảnh nhân hóa “Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” Một cõi mơ và một cõi thơ đã ùa vào theo tiếng đàn của người tài nữ ấy.
++ Khi ra khỏi thành phố Huế, sông Hương là nàng Kiều chí tình trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi về biển cả.
+ Không chỉ là những chi tiết, hình ảnh được nhân hóa thành tính cách nữ mà những hình ảnh so sánh cũng đã đem đến một diện mạo mới cho dòng sông Hương để rồi từ đó chất thơ được tiếp tục cất cất cánh.
++ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sáng tạo những câu văn đẹp, ăm ắp hình ảnh với những so sánh, liên tưởng bất ngờ thú vị. Trên hành trình về xứ Huế, khi trôi qua những dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo, sông Hương bỗng trở nên “mềm như tấm lụa”, một tấm lụa đào mềm mại, tươi tắn, sang trọng, quý phái.
++ Hoàng Phủ Ngọc Tường ví những khúc quanh của dòng Hương giang như những đường cong mềm mại và hơn thế nữa nó còn như “một tiếng vâng” kín đáo của tình yêu. So sánh cái hữu hình của dòng sông với một trạng thái cảm xúc nội tâm của con người, quả là “xưa nay hiếm”.
++ Sông Hương không chỉ đẹp ở đường cong thật mềm mà sông Hương còn đẹp bởi “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Câu văn này đã bộc lộ khả năng quan sát và liên tưởng tinh tế của nhà văn. Chiếc cầu sơn trắng bạc với những nhịp cầu hình bán nguyệt nhìn từ xa như những vành trăng non. Cách so sánh đầy hình tượng đó đã tôn tạo vẻ đẹp của dòng sông.
++ Rồi khi miêu tả màu sương khói bàng bạc tím trên sông Hương, nhà vă đã lùi lại một khoảng thời gian rất xa, nhớ về một sắc áo cưới màu điều – lục các cô dâu Huế vẫn mặc sau tiết sương giáng. Từ đấy nhà văn liên tưởng màu của sương khói trên sông Hương, giống như “tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông”.
– Luận điểm 2. Chất thơ đó không chỉ được tạo nên qua những chi tiết, hình ảnh gợi cảm mà còn được tạo nên từ một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn.
+ Sự am hiểu về cổ sử và cổ văn đã làm nên một lối văn riêng biệt của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều.
+ Sự trong sáng của lối hành văn ấy còn được tạo nên từ một “chất Huế” không pha tạp, không trộn lẫn với bất cứ nền văn hóa của miền đất nào khác.
+ Không chỉ trong sáng, truyền cảm lối hành văn hướng nội của Hoàng Phủ Ngọc Tường còn mang một nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn. Đó là giọng điệu tha thiết, yêu thương khi nhà văn dõi theo hành trình của sông Hương. Đó là giọng điệu dịu dàng, mê đắm khi liên tưởng sự gắn kết của sông Hương và xứ Huế đến câu chuyện tình yêu Kim Kiều. Đó là giọng điệu tự hào, trân trọng khi nhà văn khám phá nét riêng, độc đáo của sông Hương trong tương quan với những dòng sông nổi tiếng trên thế giới.
* Đánh giá chung.
– Khẳng định chất thơ trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” và tính đúng đắn của nhận định. Chất thơ ấy được tạo nên khi Hoàng Phủ Ngọc Tường khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của chính mình trước vẻ đẹp của dòng sông Hương, trước thiên nhiên xứ Huế qua những chi tiết, hình ảnh nhân hóa, so sánh đầy gợi cảm, qua lối văn trong sáng, chuẩn mực, truyền cảm, sáng tạo, đậm chất Huế, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn. Nhận định trên hoàn toàn đúng đắn về nghệ thuật tạo nên chất thơ trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” nói riêng và cho tùy bút, bút kí văn học nói chung.
– Khẳng định cái tâm và cái tài của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
– Rút ra bài học cho quá trình sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật. Nhà văn cần nhận thức được sự quan trọng, cần thiết của chất thơ trong những đứa con tinh thần của mình và người đọc cần có khả năng thưởng thức và đánh giá giá trị tác phẩm, đặc biệt là biết khám phá cái đẹp trong cuộc sống và con người. Người đọc cần biết dựa vào những yếu tố nghệ thuật tạo nên chất thơ để cảm nhận chất thơ trong tùy bút, bút kí văn học.
Kết bài: Khẳng định sức sống của văn chương. Văn chương đưa ta đến với cuộc sống, với cái đẹp cũng như những vấn đề cấp thiết của con người, văn chương nghệ thuật ở mọi thời đại.
BÀI VIẾT THAM KHẢO
“– Hỡi những bông hoa nhỏ. Hãy cho ta biết, ngươi ước vọng điều gì trong cuộc sống vô ưu của người?
– Chỉ cần một ngày nắng đẹp để nở hoa…Tôi có một trái tim hồng ngọc chỉ để sống và chết một lần với trái tim của tôi.”
Cuộc đối thoại giữa Hoàng Phủ Ngọc Tường với hoa cỏ trong “Sử thi buồn” đã gợi lên trong lòng tôi bao xúc cảm, nghĩ suy. “Một trái tim hồng ngọc chỉ để sống và chết một lần với trái tim của tôi”. Đó là lời của cỏ hoa hay là tâm nguyện một đời của nhà văn ấy? Hoàng Phủ Ngọc Tường quả thật đã sống cùng một trái tim nồng nàn tình yêu với xứ Huế, với sông Hương. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là áng văn xuôi được dệt nên bằng tình yêu thủy chung của nhà văn họ Hoàng đó. Để rồi có một chất thơ được tạo nên từ chính những xúc cảm thẳm sâu, cùng những hình ảnh gợi cảm, lối văn trong sáng nhẹ nhàng. Chất thơ ấy như men “rượu hồng đào chưa nhắm đã say” cứ phảng phất trong tâm hồn bạn đọc. Thật đúng với ý kiến cho rằng “Chất thơ trong văn xuôi là cái được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn.”
Khi đọc thần thoại Hy lạp, tôi luôn băn khoăn tự hỏi: “Vì sao thần Apollo luôn xuất hiện với cây đàn lia”. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà con người Hy lạp cổ xưa quan niệm thần Apollo là vị thần tượng trưng cho ánh sáng, nghệ thuật. Cây đàn lia ấy là tượng trưng cho nghệ thuật và nghệ thuật luôn đi liền với ánh sáng. Đúng như Charles DuBos đã khẳng định “Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng” Và một trong những yếu tố tạo nên cái đẹp cho các tác phẩm văn xuôi chính là chất thơ, “thứ nước ngọt ngào ngấm trong trái táo”. Nếu thơ là loại hình nghệ thuật phản ánh cuộc sống với những cảm xúc chất chứa, cô đọng, những tâm trạng dạt dào, những tưởng tượng mạnh mẽ, trong ngôn ngữ hàm xúc, giàu hình ảnh, nhịp điệu thì bút ký cũng là thể loại đòi hỏi người viết phải giàu cảm xúc, có liên tưởng, có khả năng bình luận sắc sảo. Sự gặp gỡ của xúc cảm tâm hồn đã tạo nên chất keo kết dính đặc biệt cho hai thể loại văn học tưởng như đối lập nhau: thơ và văn xuôi. Như vậy “chất thơ” được hiểu là chất trữ tình được tạo nên từ sự hoà quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện để có thể khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn. Chất thơ trong văn xuôi “được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn”. “Khai thác và biểu hiện” là hai quá trình trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Khai thác cái đẹp của cuộc sống, cái đẹp của xúc cảm trong nhân vật hay của chính nhà văn và thể hiện bằng những yếu tố nghệ thuật đặc sắc như các chi tiết các hình ảnh gợi cảm, lối văn trong sáng với nhịp điệu riêng. Như vậy, nhận định trên đã đề cao vai trò của mạch cảm xúc, của các chi tiết, hình ảnh và lối viết văn trong việc hình thành nên chất thơ cho tác phẩm văn xuôi. Vậy tại sao mạch cảm xúc, các chi tiết, hình ảnh và lối viết văn lại là những yếu tố quan trọng để tạo nên chất thơ? Tôi cho rằng, đó là bởi xuất phát từ đặc trưng của văn học nói chung và đặc trưng của thơ ca nói riêng. Văn học là loại hình nghệ thuật bằng ngôn từ. Một thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, có nhịp điệu riêng. Còn văn xuôi và thơ ca là hai thể loại chính của văn học “Văn xuôi là sợi cốt còn thơ là sợi ngang” vì thế thơ ca đã thâm nhập đến lãnh địa của văn xuôi từ lúc nào không hay và cho ra đời những tác phẩm “là nó nhưng đồng thời không chỉ là nó” để rồi khiến cho “Văn xuôi cần phải có cánh. Đôi cánh ấy chính là thơ. Chất thơ chính là chiếc cầu mềm mại đưa văn xuôi vào hồn người êm ái, dịu dàng”. Mỗi tác phẩm văn xuôi sẽ có một chất thơ riêng nhưng chất thơ luôn được tạo nên qua xúc cảm, qua chi tiết, hình ảnh; qua lời văn, nhịp điệu. Hoàng Phủ Ngọc Tường là một ngòi bút kí giàu chất thơ, người đã trầm cả tâm hồn mình trong sông Hương để trả món nợ lòng với xứ Huế và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài kí xuất sắc của Hoàng Phủ được viết tại Huế năm 1981 in trong tập bút kí cùng tên, là kết quả của tình yêu với vùng đất cố đô đó. Đọc tác phẩm người đọc như được nhâm nhi một thứ nước táo ngọt ngào hay được thưởng thức chất men say của rượu hồng đào qua những xúc cảm nồng nàn trong chính trái tim của nhà văn, qua các chi tiết, hình ảnh gợi cảm cùng lời văn trong sáng có những nhịp điệu riêng. Đó cũng chính là những yếu tố để tạo nên chất thơ cho tác phẩm.
Cánh diều ngược gió mà bay lên trời xanh. Tác phẩm văn xuôi nhờ chất thơ mà cất cánh bay vào bầu trời văn học. Và vì thế, tôi đồng tình với quan điểm “Chất thơ trong văn xuôi được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn”. Và chất thơ trong tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được tạo nên trước tiên qua các chi tiết, hình ảnh gợi cảm khi nhà văn cảm nhận và khắc tạc vẻ đẹp phong phú của sông Hương.
Nếu “sông Hồng là nỗi nhớ về phù sa của đời người, sông Cửu Long là sức mạnh đi tới biển thì sông Hương như nỗi hoài vọng về một cái đẹp chưa đạt tới ở đời”. Vì thế ta cảm nhận được một niềm rung động thẳm sâu trong ánh nhìn của Hoàng Phủ dành cho sông Hương, một ánh nhìn “thiên tính nữ” để rồi những hình ảnh nhân hóa kết hợp với những liên tưởng bất ngờ đã giúp nhà văn thổi hồn vào dòng sông, biến sông Hương thành một sinh thể có tính cách, có nỗi niềm và từ đó chất thơ ngọt ngào của tác phẩm hiện lên như có hình có sắc. Dòng Hương giang chảy tràn trên những trang kí của nhà văn với nhiều dáng vẻ, biến hóa linh hoạt. Dưới góc nhìn địa lí, khi còn ẩn mình nơi thượng nguồn, “sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Có lẽ không phải ngẫu nhiên nhà văn lại lựa chọn hình ảnh cô gái Di -gan để khắc họa nét đẹp đầu tiên của một dòng sông mang thiên tính nữ. Nhà văn như tái hiện một đời sống rất riêng rất cá tính của sông Hương trước khi trở thành dòng sông của vùng đất cố đô. Sông Hương đã từng mang một cái tên thật ấn tượng – dòng sông Pooly nê diêng và rong ruổi giữa rừng già thẳm sâu. Hành trình đó đã hun đúc lên cho sông Hương một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do, trong sáng. Vì thế dưới ánh nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương đã hóa thân thành những cô gái Bô hê miêng với tính cách mạnh mẽ, phóng túng, xinh đẹp, bí ẩn, yêu thích ca hát, ưa thích cuộc sống tự do. Nhân cách hóa sông Hương thành cô gái Di gan, Hoàng Phủ đã khắc vào tâm trí bạn đọc ấn tượng mạnh về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng đầy tình tứ của dòng sông để rồi tạo nên những sợi thơ đầu tiên trong trang hoa của nhà văn. Và khi ra khỏi rừng, cái sức mạnh bản năng của người con gái tự do, phóng khoáng trong sông Hương đã được rừng già chế ngự. Sông Hương phút chốc “mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Với cái nhìn đó, Hoàng Phủ đã giúp người đọc có thêm một góc nhìn, một sự hiểu biết về vẻ đẹp, sự hùng vĩ man dại đầy chất thơ của dòng sông. Sông Hương như một “đấng sáng tạo” đã góp phần tạo nên, gìn giữ, bảo tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên xứ sở. Sẽ không quá, nếu cho rằng: “Không có sông Hương thì khó có thể có văn hóa Huế ngày nay”. Chính vì vậy, từng ngày từng giờ sông Hương vươn mình chảy qua cửa Thuận là từng ngày từng giờ sông Hương duy trì và bồi đắp phù sa cho cả một vùng văn hóa Huế. Thế nhưng dường như sông Hương không muốn bộc lộ công lao to lớn ấy của mình. Người mẹ ấy đã đóng kín lại ở cửa rừng, ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng, từ giã thế giới huyền thoại của rừng già. Cách viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật gợi cảm, giúp người đọc hiểu thấu đáo hơn vẻ đẹp dữ dội, hùng vĩ của sông Hương. Nhưng lạ kì thay, khi vừa ra khỏi vùng rừng núi, sông Hương như được lột xác. Dòng nước mát lành, ngọt ngào của sông Hương như một phép “cải lão hoàn đồng” trả lại cho người mẹ phù sa ấy những vẻ đẹp của một thời son trẻ “Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy thơ dại”. Cái chất thơ được tạo nên ở đây là một niềm say mê trong ánh nhìn đắm đuối của nhà văn với người gái đẹp ấy. Cái đẹp trên gương mặt đang chìm trong giấc ngủ mơ màng. Cái đẹp trong dáng nằm yêu kiều giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Một chi tiết, một hình ảnh ướp tràn chất thơ của đất trời Châu Hóa. Và bắt đầu từ đây, chất thơ của bài kí còn được phác lộ rõ nét qua “cảm hứng Kiều” khi nhà văn nhân hóa hành trình về xứ Huế của sông Hương chính là một cuộc tìm kiếm có ý thức của một người con gái đang yêu: “Ngay từ đầu, vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng…uốn mình theo những đường cong thật mềm …”, “nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán… vẽ một hình cung thật tròn … ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Điều này không khỏi khiến người đọc liên tưởng đến cuộc vượt thoát khỏi lễ nghi phong kiến, chủ động tìm kiếm hạnh phúc cho đời mình của nàng Kiều khi xưa:
“Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”
Và như vậy Hương giang đã trở thành nàng Kiều của xứ Huế. Sự gắn kết giữa sông Hương và thành Huế như sự gắn kết của tình yêu muôn thuở, như đôi tài tử giai nhân Thúy Kiều – Kim Trọng với “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc”. Hình ảnh sóng đôi đó chẳng phải là một chất thơ thật đẹp trong tác phẩm hay sao? Cái nhìn thiên tính nữ của nhà văn còn đem đến cho người đọc một sự ngỡ ngàng qua hình ảnh nhân hóa “Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” khi sông Hương chảy trong lòng thành phố Huế. Một cõi mơ và một cõi thơ đã ùa vào theo tiếng đàn của người tài nữ ấy. Qua cảm nhận tinh tế của nhà văn, sông Hương hiện lên thật độc đáo, không lặp lại với bất kì một dòng sông nào trong văn chương cổ kim. Dường như trong mọi không gian thời gian, trong mọi góc nhìn, dưới ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đều hiện ra quen thuộc mà lạ lẫm đến bất ngờ. Tiếng đàn của người tài nữ trong đêm khuya ấy lại chính là cội nguồn của nền âm nhạc cổ điển Huế “được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Cảm hứng Kiều lại một lần nữa ùa về trong từng cung bậc của tiếng đàn ấy, đem đến cho người đọc những xúc cảm bâng khuâng và cả những niềm ưu tư “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Trong tưởng tượng của Hoàng Phủ, Nguyễn Du đã có những đêm trăng xuôi thuyền trên sông Hương. Giữa dập dềnh trăng nước, thi nhân lắng nghe âm thanh của dòng sông, gửi hồn vào những điệu nhạc dìu dặt từ khoang thuyền để rồi âm hưởng của dòng nhạc cổ điển cũng như những điệu hò dân gian ít nhiều để lại dấu vết trong Truyện Kiều chăng? Phải chăng những câu thơ miêu tả tiếng đàn của Thúy Kiều ra đời từ đó và trở thành bất tử? Đó là cơ sở để Hoàng Phủ Ngọc Tường hóa thân vào một người nghệ nhân già, khi nghe những câu thơ tả tiếng đàn của Thúy Kiều:
“Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”
đã nhận ra âm hưởng của âm nhạc cung đình Huế và bật thốt lên “Đó chính là Tứ đại cảnh”. Cái chất thơ trong văn phong Hoàng Phủ dường như mỗi lúc một sắc ngọt hơn. Khi phải chia xa người tình sau hàng thế kỉ mong đợi, người tài nữ đêm khuya ấy, cũng vẫn đầy bí ẩn, nhẹ cất cây nguyệt cầm, lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Nhưng rồi thật bất ngờ, nàng đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt trở lại để kiên quyết tìm gặp người tình của mình một lần nữa ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Khúc quanh ấy thật lạ với tự nhiên nhưng lại thật giống với con người, bởi nó chính là “nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Đó cũng chính là tính cách của nàng Kiều khi xưa đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng trong đêm tình tự để nói một lời thề trước khi về biển cả: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ”. Lời thề ấy như vang vọng hàng nghìn năm khắp lưu vực sông Hương, rồi trở thành giọng hò dân gian thấm đượm tấm lòng của người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở. Sẽ là thật đời, nếu khúc quanh ấy chỉ được soi chiếu dưới góc nhìn địa lí, và sông Hương cũng chỉ là một dòng sông đơn thuần chảy trôi trong tự nhiên. Thế nhưng người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp, không cho phép sông Hương là đời, mà bằng góc nhìn của tình yêu, bằng những biện pháp nhân hóa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã biến sông Hương trở thành nàng Kiều của xứ Huế. Một cảm hứng Kiều đôi khi nồng nàn, đôi khi bảng lảng nhưng luôn dìu dịu trên những trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phải chăng chính cảm hứng ấy đã góp phần hun đúc nên cái nhìn mê đắm của nhà văn đã nguyện suốt cả cuộc đời đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Đó chẳng phải là một chất thơ ngọt thơm như nước trái táo hay sao?
Không chỉ là những chi tiết, hình ảnh được nhân hóa thành tính cách nữ mà những hình ảnh so sánh cũng đã đem đến một diện mạo mới cho dòng sông Hương để rồi từ đó chất thơ được tiếp tục cất cất cánh. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sáng tạo những câu văn đẹp, ăm ắp hình ảnh với những so sánh, liên tưởng bất ngờ thú vị. Trên hành trình về xứ Huế, khi trôi qua những dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo, sông Hương bỗng trở nên “mềm như tấm lụa”, một tấm lụa đào mềm mại, tươi tắn, sang trọng, quý phái. Hình ảnh so sánh đó vừa tô đậm vẻ đẹp mềm mại, duyên dáng, nữ tính vừa khắc họa vẻ đẹp sang trọng, quý phái, đài các của người con gái đẹp vùng đất cố đô. Người con gái ấy khi đã tìm đúng đường về, đã phô khoe sự duyên dáng quen thuộc của mình trong những nét uốn lượn tình tứ: “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến” “đường cong đó làm dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng … “vâng” … không nói ra của tình yêu”. Hoàng Phủ Ngọc Tường ví những khúc quanh của dòng Hương giang như những đường cong mềm mại và hơn thế nữa nó còn như “một tiếng vâng” kín đáo của tình yêu. So sánh cái hữu hình của dòng sông với một trạng thái cảm xúc nội tâm của con người, quả là “xưa nay hiếm”. Tiếng “vâng” đó sao đáng yêu đến vậy. Nó giống như cái thẹn thùng cúi đầu đầy e lệ của người con gái trước tình yêu trong “Sóng” của Xuân Quỳnh:
“Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Những hình ảnh so sánh trong trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường rất đa dạng và phong phú vì thế chất thơ của trang kí cũng không bao giờ bị lặp lại. Sông Hương không chỉ đẹp ở đường cong thật mềm mà sông Hương còn đẹp bởi “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Câu văn này đã bộc lộ khả năng quan sát và liên tưởng tinh tế của nhà văn. Chiếc cầu sơn trắng bạc với những nhịp cầu hình bán nguyệt nhìn từ xa như những vành trăng non. Cách so sánh đầy hình tượng đó đã tôn tạo vẻ đẹp của dòng sông. Rồi khi miêu tả màu sương khói bàng bạc tím trên sông Hương, nhà vă đã lùi lại một khoảng thời gian rất xa, nhớ về một sắc áo cưới màu điều – lục các cô dâu Huế vẫn mặc sau tiết sương giáng. Từ đấy nhà văn liên tưởng màu của sương khói trên sông Hương, giống như “tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông”.
Nếu thử tìm một chiếc chìa khóa để giải mã thế giới nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường, theo tôi, có lẽ đó là một ca từ rất đẹp của Trịnh Công Sơn “Đời ta có khi tựa lá cỏ/ Ngồi hát ca rất tự do”. Thế giới nghệ thuật trong những trang văn, trang thơ của Hoàng Phủ luôn “hữu họa, hữu nhạc” cùng với một cái tôi say mê tìm kiếm cái đẹp, gắn bó với thiên nhiên; một cái tôi tài hoa uyên bác. Từ đó phủ lên những trang bút kí của nhà văn một chất thơ bàng bạc như sương khói sông Hương. Chất thơ đó không chỉ được tạo nên qua những chi tiết, hình ảnh gợi cảm mà còn được tạo nên từ một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn.
Phải chăng chính sự am hiểu về cổ sử và cổ văn đã làm nên một lối văn riêng biệt của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều. Nhà văn chỉ đặt bút xuống trang viết khi đã tìm được mạch liên tưởng của nơi này với nơi kia, của hôm nay và ngàn xưa, của nhất thời và muôn thuở. Vì thế lối văn ấy chuẩn mực, trong sáng không một hạt sạn về tri thức, về cách dùng từ, đặt câu. Không phải ngẫu nhiên, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại đặt nhan đề bài kí bằng một câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Câu hỏi ấy ngỡ như bâng quơ, không lời giải đáp nhưng lại là một tín hiệu thẩm mĩ mà nhà văn đã phải trăn trở, nghĩ suy mới đặt bút viết tên. Câu hỏi đặt ra “với trời, với đất” đã đưa nhà văn làm một cuộc hành trình lịch sử tìm về cội nguồn của dòng sông và cảm nhận, miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn địa lý – âm nhạc – lịch sử – văn học. Để rồi khi kết thúc tác phẩm, câu hỏi bâng khuâng ấy xuất hiện trở lại nhưng không phải để gợi mở hành trình mà để trả lời, khép lại trang kí, tô đậm thêm vẻ đẹp lấp lánh của dòng sông Hương, đồng thời bộc lộ một cái tôi nồng cháy, suy tư. Sự chính xác trong cách đặt ra câu hỏi cho nhan đề tác phẩm cũng đã đem đến cho tác phẩm một chất thơ dịu ngọt. Cùng với đó là cách dùng từ, viết câu chuẩn mực của nhà văn. Hành trình về xuôi của sông Hương đã được nhà văn khắc họa tỉ mỉ, chi tiết, chính xác đến từng khúc quanh, từng địa danh: “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Một loạt các động từ “ chuyển hướng, vòng qua, vẽ một hình cung thật tròn, ôm lấy, xuôi dần…” được nhà văn lựa chọn tinh vi không chỉ miêu tả chân thực thủy trình của sông Hương mà còn tô đậm dáng vẻ mềm mại, uốn lượn đầy gợi cảm của một dòng sông kinh kì. Sông Hương như một người gái đẹp giữa độ xuân thì với những đường cong tràn đầy sức sống. Sự chính xác trong từng động từ, danh từ đó đã khiến câu văn giàu hình ảnh, giàu giá trị biểu cảm thức dậy trong lòng người đọc những xúc cảm thú vị. Từ ngỡ ngàng, ngạc nhiên, trầm trồ, xuýt xoa trước vẻ đẹp của dòng sông đến ngưỡng mộ, cảm phục sự hiểu biết tường tận, tỉ mỉ của nhà văn. Từ đó khiến cho trang văn của Hoàng Phủ ngập tràn một chất thơ. Không những thế, ở nhà văn họ Hoàng đó, ta còn bắt gặp một lối viết đầy sáng tạo. Chỉ một biện pháp liên tưởng thôi nhưng đã gợi mở, gắn kết biết bao những sự việc khác nhau trong không gian và thời gian về cùng một bình diện dưới lực hút quy tụ của cảm xúc và suy nghĩ của nhà văn để mở ra những chiều so sánh, đối chiếu trong tâm thức tiếp nhận của người đọc. Nhà văn nói đến điệu chảy lặng lờ của sông Hương khi ngang qua thành phố bằng cách so sánh gợi lại một kỷ niệm khi lần đầu thấy sông Nêva cuốn trôi những tảng băng, từ đó ngược dòng lịch sử nhân loại nhắc tới một ý tưởng triết học của Hêracơlít lấy hình ảnh về một dòng sông chảy quá nhanh. Và qua bấy nhiêu hồi ức liên tưởng ấy để cuối cùng trở lại với con sông Hương nhẹ nhàng, lặng lẽ. Nhà văn viết: “Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng, bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”. Cái lặng lờ của dòng sông, như vậy, không còn là cái lặng lờ của con nước nữa mà chuyển hóa thành cái lặng lờ của những đóa hoa đăng. Chính sự đan dệt của những liên tưởng trong chiều sâu lịch sử – văn hóa đó vừa đem lại nhiều nguồn thông tin cho người đọc vừa khẳng định một sự sáng tạo trong lối hành văn “xưa nay hiếm” của nhà văn. Và có lẽ sự trong sáng của lối hành văn ấy còn được tạo nên từ một “chất Huế” không pha tạp, không trộn lẫn với bất cứ nền văn hóa của miền đất nào khác. Cái chất Huế ấy như đã vượt ra ngoài phạm vi chỉ cái cụ thể riêng biệt của một vùng đất để trở thành một tính chất trong văn phong của nhà văn. Đúng như Tô Hoài đã nhận xét: “Nếu có thể so sánh thì tôi nghĩ rằng Sơn Nam thuộc đến ngõ ngách những sự tích xưa của Sài Gòn – Bến Nghé, tôi thì nhớ được ít nhiều tên phố, tên làng vùng Hà Nội, Hoàng Phủ Ngọc Tường thì trằm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời, sông nước của Huế”. Một loạt những địa danh quen thuộc của Huế theo hành trình của sông Hương lần lượt hiện dần lên dưới ngòi bút của nhà văn như Kim Phụng, Châu Hóa, Phú Xuân, Ngã Ba Tuần, điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán, Vạn Niên, Thiên Mụ, Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo…Những địa danh ấy không còn là những lớp vỏ ngôn từ mà như có chiều sâu tâm linh để đưa người đọc vượt không gian trở về với xứ Huế. Những con chữ, những đoạn văn lấp lánh huyền thoại, đậm bản sắc văn hóa vật thể, hòa quyện với thiên nhiên của vùng đất cố đô, từ những “quần sơn lô xô”, những đền đài lăng tẩm mang “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa” đến những rừng thông u tịch làm nên một xứ Huế sơn thủy hữu tình. Những câu văn đầy màu sắc, đậm chất Huế, tràn chất thơ mượt mà từ “chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng” đến “những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím””, từ “sắc nước xanh thẳm” của sông Hương, những biền bãi xanh biếc, màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ đến màu áo điều – lục của những cô dâu Huế và màu tím giăng giăng sương khói sông Hương cứ êm ái đi vào hồn người. Cách nói của con người Huế đã được nhà văn chọn lọc và nâng cao đến trình độ chuẩn mực của ngôn ngữ văn học. Những lời ca dao, những câu hò Huế: “Bốn bề núi phủ mây phong/ Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên” hay “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…” cùng những vần thơ của các thi nhân viết dành riêng cho xứ Huế cũng được nhà văn khéo léo đưa vào trang kí, vừa tạo nên một chất Huế riêng biệt vừa làm cho những trang văn sóng sánh chất thơ. Tôi có cảm giác như nhà văn hòa nhập vào với thiên nhiên, ngoại giới và nội tâm có sự tương giao sâu sắc. Không yêu thiên nhiên, không hiểu Huế, sao nhà văn có thể viết được những câu văn đẹp như tranh vẽ đến thế? Và không chỉ trong sáng, truyền cảm lối hành văn hướng nội của Hoàng Phủ Ngọc Tường còn mang một nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn. Ai đó đã từng nói “Âm điệu là cỗ xe chuyên chở hồn thi phẩm”. “Cỗ xe âm điệu” trong văn xuôi cũng thế! Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn ưa viết những câu văn dài cùng với một giọng điệu riêng biệt. Đó là giọng điệu tha thiết, yêu thương khi nhà văn dõi theo hành trình của sông Hương từ thượng nguồn cho đến khi về với biển. Đó là giọng điệu dịu dàng, mê đắm khi liên tưởng sự gắn kết của sông Hương và xứ Huế đến câu chuyện tình yêu Kim Kiều mãnh liệt, say đắm với nhiều cung bậc cảm xúc: mong đợi, vui sướng, ngập ngừng, bịn rịn, lưu luyến, nhớ nhung. Đó là giọng điệu tự hào, trân trọng khi nhà văn khám phá nét riêng, độc đáo của sông Hương trong tương quan với những dòng sông nổi tiếng trên thế giới để rồi nhà văn chợt nhận ra điệu chảy lặng lờ của nó sao đáng yêu đáng quý đến vậy. Đó còn là niềm tự hào về lịch sử của một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng đã từng giữ những nhiệm vụ vinh quang của đất nước . Những nhịp điệu, giọng điệu riêng biệt ấy được khởi nguồn từ một cái tôi tài hoa uyên bác, một tấm lòng yêu quê hương đất nước nồng cháy, luôn hướng về cội nguồn về xứ Huế, về dòng sông Hương.
Trong miền nhớ của bạn đọc, có một cõi an nhiên giữa phiên chợ văn chương còn nhiều pha tạp hôm nay, đó chính là cõi thơ trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Và cũng chẳng phải tình cờ mà những trang văn của nhà văn lại sóng sánh một chất thơ đến thế. Chất thơ ấy được tạo nên khi Hoàng Phủ Ngọc Tường khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của chính mình trước vẻ đẹp của dòng sông Hương, trước thiên nhiên xứ Huế qua những chi tiết, hình ảnh nhân hóa, so sánh đầy gợi cảm, qua lối văn trong sáng, chuẩn mực, truyền cảm, sáng tạo, đậm chất Huế, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” chính là một bài thơ bằng văn xuôi ca ngợi sông Hương gắn với thiên nhiên, văn hóa và con người xứ Huế. Bằng tấm lòng yêu thương, gắn bó với quê hương đất nước, nhà văn đã trân trọng, tự hào về bề dày lịch sử, bề dày văn hóa Huế và tâm hồn của con người ở vùng đất cố đô. Phải yêu sông Hương lắm nhà văn mới xem dòng sông là một cô gái thùy mị mà đa tài “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Phải thú sông Hương lắm nhà văn mới nhìn thấy dòng sông như một cô gái đa tình, kín đáo và một chút lẳng lơ duyên dáng, chung tình.
Nếu “Thơ là cái đó. Sự im lặng giữa các từ. Nếu người ta lắng nghe cái im lặng đó thì sẽ có những tiếng rộ rất đa dạng và tinh tế” thì “Văn xuôi cũng phải đượm hồn thơ”. Chất thơ sẽ khiến tác phẩm văn xuôi trở nên tinh tế và vút cao để rồi nhẹ nhàng thấm sâu vào tâm hồn người đọc. Chất thơ được chưng cất từ chính đời sống bình dị, thường nhật, bằng rung động tâm hồn của nhà văn tỏa ra từ tình yêu cái đẹp, từ cái nhìn tinh tế trước thiên nhiên, đời sống và niềm tin thiện căn của con người và được thể hiện qua những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm, qua lối văn trong sáng, truyền cảm phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn. Như vậy nhận định “Chất thơ trong văn xuôi là cái được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn” là hoàn toàn đúng đắn. Trong quá trình sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật, nhà văn cần nhận thức được sự quan trọng, cần thiết của chất thơ trong những đứa con tinh thần của mình và người đọc cần có khả năng thưởng thức và đánh giá giá trị tác phẩm, đặc biệt là biết khám phá cái đẹp trong cuộc sống và con người. Mỗi tác phẩm văn học luôn in dấu trong lòng người đọc bởi những hình tượng nghệ thuật độc đáo, những phương thức, phương tiện in đậm dấu ấn cá nhân chủ thể sáng tạo của người nghệ sĩ. Đặc biệt là chất thơ như “chất nước ngọt ngào thấm trong trái táo” sẽ dẫn dắt người đọc đến “xứ sở cái Đẹp” để hiểu được giá trị tư tưởng sâu sắc của tác phẩm, để ngưỡng mộ phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn, để làm cho “lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”. Tuy nhiên đưa chất thơ vào trong văn xuôi không có nghĩa là nhà văn thoát li hiện thực cuộc sống, tô hồng và thi vị hóa cuộc sống bởi “cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi tới của văn chương”. Trên hành trình thực hiện sứ mệnh của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo nên một dấu ấn riêng, một phong cách nghệ thuật riêng đó chính là một ngòi bút kí giàu chất thơ. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là tác phẩm soi chiếu cái tài và cái tâm của người nghệ sĩ tài hoa đó. Quả đúng là “Tài nhờ tâm mà tỏa sáng. Tâm nhờ tài mà cháy lên”.
Nhà thơ Ra-xun Gam-da-tôp đã từng nói : “Nếu nhà thơ không tham gia vào việc hoàn thành thế giới thì thế giới đã không được đẹp đẽ như thế này”. Dù Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải là nhà thơ tiêu biểu mà là một nhà viết kí, nhưng bằng bài kí đặc sắc này, nhà văn đã góp một tay vào việc tạo nên một thế giới Việt Nam Đẹp và Thơ. Và đó là gì nếu như không phải là hành động yêu nước mang màu sắc riêng của người nghệ sĩ tài hoa này?